TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.338.766
Truy câp hiện tại 984
Tư tưởng Hồ Chí minh về Xây dựng Hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh và phát huy sức mạnh toàn dân tộc (Phần 1: Về Xây dựng, chỉnh đốn Đảng)
Ngày cập nhật 07/05/2024

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nội dung mang tính chiến lược trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, Người đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại, tạo ra một thời đại mới của dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh, thời đại độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng: “Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng”[1]; “Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”[2]. Đảng muốn vững phải trong sạch, kiểu mẫu, đủ sức đảm đương vai trò, sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, đi với vận mệnh của nước nhà và dân tộc, Đảng có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng, do đó công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ hàng đầu, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Trên cơ sở vận dụng đúng đắn và sáng tạo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào việc xây dựng đảng cộng sản ở một nước thuộc địa, phong kiến, kinh tế - xã hội kém phát triển, giai cấp công nhân Việt Nam còn nhiều hạn chế về trình độ nhận thức chính trị và ý thức giai cấp. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xây dựng Đảng, có ba mặt: tư tưởng, chính trị và tổ chức”. Tuy nhiên, trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng và trong quá trình lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam từ một Đảng lãnh đạo cách mạng, trở thành Đảng cầm quyền, Người đã đề cập nhiều đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức; vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Quan điểm của Người được thể hiện rõ trong các bài giảng cho cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, được tập hợp trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, (xuất bản năm 1927).

Về công tác chỉnh đốn Đảng, Hồ Chí Minh lưu ý, trong những bước chuyển của cách mạng, thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử, hoặc khi tình hình thực tiễn cách mạng thay đổi, thì vấn đề “chỉnh đốn Đảng” càng trở nên quan trọng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[3].

Thứ nhất, Xây dựng Đảng về tư tưởng

Xây dựng Đảng về tư tưởng theo Hồ Chí Minh phải kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng; giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin, “nhất định phải học tập lý luận Mác-Lênin”[4]. Người khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”[5]. Người khẳng định, Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt, bởi vì chủ nghĩa Mác-Lênin mang bản chất khoa học và cách mạng, là trí tuệ của thời đại. Tuy nhiên, Người căn dặn, học chủ nghĩa Mác-Lênin để nắm quan điểm, phương pháp mà linh hồn là phép biện chứng (duy vật, lịch sử), để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là vũ khí lý luận, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, nhưng chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là Kinh thánh”[6]. Cho nên, phải chống lại tư tưởng giáo điều, chủ quan, dập khuôn, máy móc, bảo thủ, trì trệ. Người căn dặn: “Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác-Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam. Không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác-Lênin mà làm được như vậy. Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng”[7].

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về tư tưởng là phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận và chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nói: “Nâng cao trình độ lý luận và chính trị, cải tạo mình là một việc trường kỳ và gian khổ. Nhưng đó là một công tác chủ chốt trong việc xây dựng Đảng mà mỗi đảng viên phải cố gắng”[8].

Thứ hai, Xây dựng Đảng về chính trị

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn; là đảm bảo tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng; xây dựng và thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị… Người luôn nhắc nhở rằng, Đảng phải đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và trên cơ sở đó, định ra đường lối, phương châm, bước đi cụ thể thích hợp với thực tiễn cách mạng. Đồng thời, Đảng phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận nhằm giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo. Các nghị quyết của Đảng được xây dựng và tổ chức thắng lợi, sẽ ngày càng làm sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, đồng thời qua sự vận động của thực tiễn mà bổ sung và làm cho đường lối của Đảng ngày càng thêm hoàn thiện.

Xây dựng Đảng về chính trị còn được biểu hiện ở mục đích chiến đấu, lập trường và bản chất của Đảng cách mạng. Mục tiêu, lập trường kiên định của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nếu xa rời mục tiêu đó, Đảng sẽ rơi vào “tả” khuynh hoặc hữu khuynh, dao động và không sớm thì muộn, sẽ xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, xa rời lý tưởng cộng sản. Người cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị của Đảng, sự an nguy của chế độ. Để có được đường lối chính trị đúng đắn, Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực, trí tuệ, thường xuyên tổng kết lý luận và thực tiễn; làm giàu trí tuệ của Đảng bằng kho tàng tri thức nhân loại. Như V.I. Lênin từng chỉ ra: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”[9].

Phải dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị. Việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ lịch sử. Đảng phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm quý của các Đảng Cộng sản trên thế giới; thường xuyên tổng kết kinh nghiệm từ hoạt động lãnh đạo của Đảng để bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng Đảng. Đồng thời, Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Thứ ba, Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ

Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên. Xây dựng Đảng về tổ chức gắn liền với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Đảng phải là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh; một tổ chức chiến đấu kiên cường, với đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, gắn bó máu thịt với nhân dân, có đức có tài, tận tâm tận lực phục vụ cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng. Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ, coi “Chi bộ là gốc rễ của Đảng … Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng… Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh. Các Chi uỷ vững tức là chi bộ mạnh”[10]. Chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi trực tiếp quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên. Chi bộ có vai trò quan trọng trong việc thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.

Sức mạnh của tổ chức Đảng gắn liền với vai trò, năng lực, phẩm chất, sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên. Về xây dựng đội ngũ đảng viên, Hồ Chí Minh nêu rõ: Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện. Vì thế, phải thường xuyên lựa chọn những người ưu tú để kết nạp vào Đảng. Trong kết nạp đảng viên, coi trọng chất lượng hơn số lượng, khắc phục tình trạng chủ nghĩa thành phần.

Theo Hồ Chí Minh, thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đội ngũ đảng viên phải là những người tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người quán triệt: “Vì vậy, Đảng phải làm cho thành phần đảng viên trong sạch, phải bồi dưỡng và hấp thụ vào Đảng những người tốt trong giai cấp lao động. Phải nâng cao trình độ lý luận và chính trị của đảng viên. Phải tăng cường tính tổ chức và tính kỷ luật của đảng viên. Phải phát triển tính hăng hái và hoạt động chính trị của đảng viên”[11]. Để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, đòi hỏi toàn thể đảng viên và các tổ chức đảng phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đó là:

Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống nhất là theo một nguyên tắc nhất định, nguyên tắc ấy tức là: dân chủ tập trung”[12]; Người còn gọi đây là “Chế độ dân chủ tập trung của Đảng”[13].

Hồ Chí Minh phân tích: “Tập trung trên nền tảng dân chủ” và “Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”; “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”[14].

Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Theo Người giải thích: Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. “Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”[15].

Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Hồ Chí Minh chỉ rõ, cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng và phát huy trí tuệ của tập thể, xây dựng kế hoạch rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách thi hành, từ đó gắn trách nhiệm và phát huy vai trò của mỗi cá nhân, bảo đảm cho công việc được triển khai kịp thời và có hiệu quả. Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ dựa dẫm, ỷ lại, kết quả là không ai thi hành, dẫn tới tình trạng thiếu vắng trách nhiệm, như thế thì việc gì cũng không xong. Cho nên, lãnh đạo cần phải tập thể, mà phụ trách cần phải cá nhân.

Trong công tác xây dựng Đảng, khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi đảng viên phải tuân theo kỷ luật của Đảng, cá nhân phải phục tùng tổ chức, bộ phận phải phục tùng toàn thể, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương, đảng viên phải phục tùng Nghị quyết của Đảng. Phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền, hay ngược lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám chịu trách nhiệm. Lãnh đạo tập thể sẽ khắc phục được tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau. Tập trung và dân chủ là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, là chế độ lãnh đạo của Đảng. Một đảng chân chính và cách mạng, không được xa rời nguyên tắc này.

Nguyên tắc tự phê bình và phê bình

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là “quy luật phát triển” của Đảng, là “vũ khí sắc bén”, “thang thuốc hay” trong công tác xây dựng Đảng. Người chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lấy, ngấm vào trong Đảng. Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta đã thấy rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”[16]. Người nhấn mạnh, mục đích của tự phê bình và phê bình là để giúp nhau cùng tiến bộ; làm “cái ác” dần mất đi, “cái thiện” nảy nở, sinh sôi để làm việc tốt hơn. Hồ Chí Minh yêu cầu trong xây dựng Đảng, phải tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên, nghiêm túc.

Cách thức, phương pháp tự phê bình và phê bình là: Phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật, mục đích là cốt để sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ; phải trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; thực hiện dân chủ từ trên xuống dưới, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu phải gương mẫu trong thực hành tự phê bình và phê bình. Đồng thời phải kiên quyết chống những biểu hiện lệch lạc trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; động cơ, mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm chỉ ra khuyết điểm, nhận thức sai lầm để sửa chữa, cho nên phải mang tính xây dựng; phải có thái độ cầu tiến, lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê bình, nhất là những ý kiến của quần chúng, nhân dân. Người nói: “Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em”, ngǎn cản quần chúng phê bình”[17].

Tác dụng của tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[18]. Người nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi”[19].

Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng

Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã được hình thành cùng với tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Kế thừa phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi vận động thành lập Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng được Hồ Chí Minh yêu cầu thực hiện như một trong những nguyên tắc cơ bản để xây dựng Đảng ta là một đảng mác xít chân chính. Trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[20]. Người yêu cầu: “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[21]. Theo quan điểm của Người, đoàn kết thống nhất trong Đảng là tiền đề và là hạt nhân của xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Phương pháp để xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng là mở rộng dân chủ, thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình; thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.

Kỷ luật nghiêm minh và tự giác

Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của Đảng là ở tinh thần kỷ luật, ý thức tổ chức nghiêm minh, tự giác của cán bộ, đảng viên. Kỷ luật nghiêm minh, tự giác trước hết thể hiện ở việc chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo, sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đây là yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng. Kỷ luật này tạo điều kiện để Đảng thống nhất về tư tưởng và hành động. Kỷ luật của Đảng còn thể hiện ở chỗ mọi đảng viên nói và làm đúng đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi mọi tổ chức Đảng, mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, trong công tác hằng ngày. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của đoàn thể nhân dân.

Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này đòi hỏi tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Nếu không có kỷ luật, không thống nhất tư tưởng và hành động, “Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”[22]. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mục đích của việc chấp hành và thi hành kỷ luật Đảng là bảo đảm cho các tổ chức đảng và mọi đảng viên: “Giữ gìn và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng”[23] và “Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”[24]. Kỷ luật của Đảng bao gồm hai nội dung cơ bản: Một là: chấp hành kỷ luật của Đảng; Hai là: thi hành kỷ luật trong Đảng.

Giữa chấp hành kỷ luật của Đảng và thi hành kỷ luật Đảng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chấp hành kỷ luật của Đảng càng nghiêm túc, đầy đủ, tự giác bao nhiêu thì việc thi hành kỷ luật trong Đảng sẽ càng công minh, kịp thời, hiệu quả bấy nhiêu và ngược lại. Xử lý mối quan hệ giữa chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng chính là giải quyết mối quan hệ giữa “xây và chống”. Trong đó, lấy xây làm mục tiêu lâu dài, là chính. Nhưng khi tổ chức Đảng và đảng viên có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì phải cương quyết xem xét, xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.

Để làm được điều đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi “phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến” và “hễ thấy cán bộ sai lầm, phải lập tức sửa chữa ngay”.

Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân

Quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là một nguyên tắc của Đảng mácxít chân chính. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta là “con nòi” xuất thân từ nhân dân lao động. Gắn bó mật thiết với nhân dân đã trở thành vấn đề có tính quy luật trong sự tồn tại, phát triển của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam. Nhờ có sự kết hợp này mà bản chất giai cấp công nhân của Đảng gắn liền mật thiết với nhân dân và dân tộc. Đảng đại biểu chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Từ trong bản chất của mình, ngay từ đầu, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã được xác lập. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân và dân tộc. Dân tin Đảng, theo Đảng và gắn bó mật thiết với Đảng, bởi dân nhận thấy Đảng là Đảng của chính mình. Đảng vì dân nên dân tin Đảng, quyết tâm theo Đảng đến cùng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một Đảng lãnh đạo và cầm quyền vì dân, đó là trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân và dân tộc. Bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính là để bảo vệ nhân dân. Do đó, xây dựng Đảng không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, của các tổ chức Đảng và toàn thể đảng viên mà còn là nhiệm vụ của toàn dân, của cả xã hội, của cả hệ thống chính trị. Nhân dân quan tâm tới điều đó không chỉ với ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm mà còn từ tình cảm, tâm nguyện của mình. Hồ Chí Minh nhắc nhở, phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng. Không có dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ, Đảng không thể tồn tại, cũng không thể thực hiện được sứ mệnh của mình. Phải “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[25]. Người dạy: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đày tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít… Xa quần chúng là hỏng, cần phải nhớ nhiệm vụ của Đảng là làm đày tớ cho quần chúng”[26]. Đó cũng là cách tốt nhất để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Thứ 4, Xây dựng Đảng về đạo đức

Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng Đảng về đạo đức trên hai phương diện là đạo đức của tổ chức Đảng và đạo đức của mỗi người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới lãnh đạo được cách mạng, mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang.

Theo Người, đạo đức cách mạng là cơ sở tạo nên sức mạnh, uy tín của Đảng, “người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[27].

Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có, mà do sự tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ hằng ngày, “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Theo Hồ Chí Minh, “muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”[28].

Với Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên là nhân tố đóng vai trò quyết định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng thực hiện quyền lãnh đạo thông qua sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên - đây cũng là một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Về tư cách đạo đức của người cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau sẽ ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”[29]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Cán bộ, đảng viên không phải là thần thánh, mà đều là con người, ai cũng có hai mặt tốt - xấu, thiện - ác ở trong lòng. Bởi vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Như vậy, có thể thấy về xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung ở các nội dung: tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức. Người không xem nhẹ bất cứ nội dung nào, mà luôn chủ trương phối hợp xây dựng trên tất cả các mặt.

 


[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.289

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.289.

[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.616.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.279.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.289.

[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.120.

[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.277, 280.

[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.277, 280.

[9]. V.Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr.362.

[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.288-289.

[11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.281.

[12]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.286.

[13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.286.

[14]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.286.

[15]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.620.

[16]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.302.

[17]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.454.

[18]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.301.

[19]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.608.

[20]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, 622.

[21]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.622.

[22]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.622.

[23]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr. 242.

[24]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr. 242.

[25]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.326.

[26]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.367.

[27]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.292.

[28]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.292-293.

[29]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.291

 

(Trích Chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị và phát huy sức mạnh toàn dân; quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển Thừa Thiên Huế thành thành phố trực thuộc Trung ương trước năm 2025”)

 

Ban Tuyên giáo ĐUK (tổng hợp)
Các tin khác
Xem tin theo ngày