Tìm kiếm
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:

 

 

Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.861.433
Truy câp hiện tại 801
"học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách hồ chí minh"
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để cầm quyền, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ta ( bài 2)
Ngày cập nhật 03/04/2023

Ngày 31/01/2023, Tạp chí Tổ chức nhà nước đã đăng bài viết "Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để cầm quyền, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ta". Dưới đây là những nội dung tiếp theo của bài viết.

 

ĐÍCH ĐẾN CỦA NỀN DÂN CHỦ, ĐƯỢC BẢO ĐẢM BẰNG VÀ BỞI PHÁP LUẬT

Kinh nghiệm lịch sử xác tín và hơn bao giờ hết, yêu cầu hiện nay đang thách thức: Tính chính danh và tính chính pháp của Đảng, rộng ra là các thành viên của hệ thống chính trị, phải phát triển những tư chất giềng mối căn bản cần phải có, phải đổi mới các phương sách và quy trình hoạt động mà Đảng lựa chọn, từ các quyết sách chính trị tới xây dựng phát triển hệ thống pháp luật một cách dân chủ, để có thể thực thi tốt nhất những trọng sự quốc gia cần và hóa giải thành công mọi thách thức trên lộ trình phát triển xã hội chủ nghĩa và nhất là khi đại đa số Nhân dân đòi hỏi chính đáng, trên nền tảng pháp quyền và tự do. Đó là tinh hoa tinh thần thể chế cần phải có, cũng chính là đích đến của nền dân chủ, được bảo đảm bằng và bởi pháp luật nhằm xây dựng và phát triển một nền chính trị Việt Nam hiện đại, văn minh và tiến bộ.. 

Đó là nền chính trị Việt Nam, dưới sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải là một nền chính trị đạo đức hay nền chính trị nhân bản, với hạt nhân “Nước lấy Dân làm gốc”; “sao cho được lòng Dân”; rằng, “Chính phủ là công bộc của dân”, “Việc gì có lợi cho Dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho Dân phải hết sức tránh”; rằng, “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho Nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”; rằng, “Nếu Chính phủ làm hại Dân thì Dân có quyền đuổi Chính phủ”. Thử hỏi quốc gia, dân tộc nào đã công bố và hành động như thế? 

Nền chính trị nhân bản mà chúng ta xây dựng phải là sự gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức và thực hiện tính nghiêm minh của pháp luật. “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”, ”dân là gốc”, “dân làm gốc”. Đó là sự đặc sắc, độc đáo của Nhà nước pháp quyền quản lý bằng pháp luật theo tinh thần thượng tôn pháp luật: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Nghĩa là, phải bảo đảm sao cho pháp quyền là sự cai trị của pháp luật chứ không dừng ở pháp trị là sự cai trị bằng pháp luật. Vì, pháp quyền phải là việc phát triển pháp luật đứng trên và nằm trong tất cả. Nghĩa là thượng tôn pháp luật!

Vì, nói đến tự do của Nhân dân là phải nói đến quyền, quyền của người dân và quyền của Nhà nước. Vấn đề phải giải quyết “là ở chỗ, cái mà đối với phía này là quyền, có phải trở thành vô quyền đối với phía kia không”, như C.Mác nói. Sự cấu thành Nhà nước, do Đảng lãnh đạo, chính là xác định địa vị pháp lý của cả người dân lẫn các cơ quan và quan chức nhà nước; và sự phân giải xã hội thành cá nhân độc lập - quan hệ qua lại của họ với nhau và với Nhà nước phải được biểu thị trong pháp quyền và thông qua pháp quyền. Ở đây, cần nhấn mạnh, pháp quyền hay đặc quyền là mấu chốt của vấn đề để phân biệt quan hệ con người trong mọi chế độ xã hội: Pháp quyền là quan hệ trong xã hội dân chủ, cũng như đặc quyền là quan hệ trong xã hội đẳng cấp, chuyên chế. Xóa bỏ đặc quyền đòi hỏi phải có pháp quyền. Nhưng pháp quyền lại đòi hỏi bắt buộc phải có luật pháp đủ và đúng. Đó chính là sự tối thiểu của tinh thần pháp quyền xuyên thấm tinh thần nhân văn trong tổ chức và thực thi quyền lực của chúng ta. Và, theo đó, mấu chốt quan trọng hơn nữa ở đây là, Nhân dân cũng như Đảng, Nhà nước, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. 

Do đó, hiện nay hơn hết lúc nào, Chính phủ “phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài”. Xin nhấn mạnh, Chính phủ phải có chính trị trước, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính trị là đạo đức, là liêm chính! Đạo đức, lúc này, là hành động vì sự trong sạch. Nếu không như thế, tất sẽ rơi vào một trong hai thái cực, thậm chí cả hai thái cực. Điều cần nhấn mạnh rằng, Chính phủ phải thật sự là công bộc của Nhân dân, dựa vào trí tuệ và lực lượng của Nhân dân, giữ chặt mối liên hệ với Nhân dân và luôn luôn lắng nghe ý kiến của Nhân dân, đó là nền tảng lực lượng chính trị của Chính phủ, mà nếu “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”. Đồng thời, hết sức chú trọng tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với tăng cường giáo dục đạo đức: sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không xử phạt là không đúng, mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. 

Đối với chúng ta, chính trị đó chính là quyền lực của Nhân dân trong việc cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị nước ta. Đó là “sự tự quy định của nhân dân”, “là sự nghiệp của bản thân nhân dân”; đồng thời cũng cho thấy “quyền bình đẳng giữa những công dân..., mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước”. Càng cho thấy, không phải Nhà nước tạo ra Nhân dân mà chính Nhân dân tạo ra Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng và ý chí của Nhân dân. Đó là Nhà nước do Dân và có nhiệm vụ hướng tới phục vụ Nhân dân, vì Nhân dân, được xác định là sự nghiệp của bản thân Nhân dân: “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”. Đó chính là sự thể hiện của tinh hoa pháp quyền mà Đảng tiếp tục nắm chắc và thực thi.

Trong khi hoàn thiện chế độ nhà nước, đồng thời cũng mở rộng và hoàn thiện quan hệ dân chủ trong các yếu tố của sự tồn tại của Nhân dân, dưới các hình thức tổ chức thành viên hệ thống chính trị Việt Nam; đồng thời, dân chủ được tổ chức trong tất cả các lĩnh vực quan hệ, giữa các cá nhân, cộng đồng, giữa các nhóm và tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị, không ngừng mở rộng phạm vi các hình thức tự quản của Nhân dân, thúc đẩy sự phát triển của nền dân chủ. 

Vì nước ta là nước dân chủ, để cho Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, càng không thể có tự do ngoài kỷ cương. Pháp luật là “bà đỡ” của dân chủ, của tự do. Và, tự do đối với chúng ta, vừa là mục đích vừa là con đường để giải phóng Nhân dân và Nhân dân tự giải phóng mình vươn tới hạnh phúc. Mọi quyền dân chủ của Nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do dân chủ của Nhân dân được tôn trọng tuyệt đối trong thực tế. Tất cả nhằm kiến tạo một xã hội Việt Nam bảo đảm sự phát triển tự do của mỗi thành viên và là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Nói gọn lại, dân chủ và pháp quyền phải là mục tiêu cần vươn tới, được bảo vệ và phát triển vô điều kiện và vận hành chúng trên thực tế để bảo đảm việc tuân thủ Hiến pháp và bảo vệ các quyền của con người một cách tối cao, có khả năng phòng ngừa và ngăn chặn sự xâm hại của tình trạng vô pháp, phi pháp phá hoại các quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là mục tiêu phát triển của dân chủ, của pháp luật… mà chúng ta cần và kiên định thực thi.

Để thực hiện được yêu cầu đó, trước hết với tư cách “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”, “Đảng cũng ở trong xã hội”, lúc này, hơn bao giờ hết, Đảng phải “xứng đáng là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, “là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. Nắm chắc pháp quyền lúc này là phải nhằm tổ chức, xây dựng một Nhà nước pháp quyền khoa học, phù hợp, mạnh mẽ và sáng suốt với một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực sự là công bộc của Nhân dân. Đạo đức lúc này là, đẩy lùi những cơn khát quyền lực của một bộ phận không nhỏ cán bộ có chức, có quyền - cội nguồn đẻ ra biết bao sự phản dân chủ: “Miệng thì nói dân chủ, nhưng việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ” - bằng cơ chế kiểm soát quyền lực bởi pháp luật. Pháp trị lúc này phải là góp phần trừng phạt nghiêm minh các tệ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Nghĩa là, vì chính trị, thì đức trị và pháp trị… phải được toàn dụng! Chính trị cao nhất của chúng ta lúc này là lợi ích của Nhân dân là tối thượng, là quyền lợi của dân tộc trước hết và trên hết. Lòng tin của Nhân dân là nền móng của thể chế, là quốc bảo của chế độ, là tài sản vô giá của Đảng! 

Vì điều vô giá đó, những quyết sách chính trị Đảng không thể “bị chi phối bằng cảm tính, thường được tô vẽ là tình nghĩa hay đạo đức hoặc cao quý hơn là chủ thuyết hay mục tiêu chính trị”. Và, kiên quyết tẩy trừ bất cứ thứ gì dù dưới danh nghĩa hay cái “áo khoác” pháp quyền hay đạo đức thuần túy… làm phương hại điều đó. Vì, chưa bao giờ vấn đề đức trị cần nêu cao như bây giờ. Và vì, cũng chưa bao giờ vấn đề pháp trị phải nắm chắc như bây giờ. Nói gọn lại, dùng đức trị quản sẽ chỉ được 10 dặm, dùng pháp trị thì có thể quản được 100 dặm, mà dùng cả đức trị và pháp trị thì mới dẫn dắt và quản trị được muôn dặm sơn hà xã tắc. Cho nên không thể nhấn chỉ một bên này đức trị hoặc phía bên kia pháp trị. Cần thực thi đồng thời cả hai, trên nền tảng dân chủ thì đức trị hay pháp trị mới thực sự trở thành nền tảng để kiến tạo một xã hội hiện đại, văn minh và tiến bộ mà chúng ta vươn tới. 

Nếu chỉ kêu gọi đạo đức mà thiếu pháp luật song hành thì chỉ là kêu gọi suông, trông chờ vào lòng tốt hay sự hướng thiện thuần túy; luật pháp không gắn với đạo đức thì có nguy cơ biến thành sự bạo tàn và vô nhân tính. Do đó, đức trị không gắn liền với luật pháp thì càng không thể thành công trong quản trị quốc gia. Vấn đề nêu gương không thể không gắn với luật pháp, chế tài bảo đảm thực thi. Khi đạo lý chưa đủ thấu, đạo đức chưa đủ chuyển thì pháp lý phải toàn dụng, pháp luật phải vận hành song song với đạo đức. Đó phải là phương lược dẫn dắt quốc gia của Đảng và quản trị quốc gia dân chủ và văn minh nhất của Nhà nước một cách thật sự pháp quyền. 

Không gì tai hại và nguy hiểm hơn khi đánh tráo mục tiêu chính trị và phương tiện, lại cổ xúy thực thi nó một cách dân chủ rất hình thức, dân chủ trá hình, thậm chí dân chủ vô pháp vô thiên.

Thực tiễn cho thấy và đang đòi hỏi rằng, thước đo linh nghiệm và quyết định bậc nhất trong cuộc đổi mới và phát triển tinh thần thể chế, dù bắt đầu từ nhân trị hay pháp trị hay sự tổng hòa kỹ trị với pháp trị và nhân trị…, xét cho tới cùng, nếu không giải phóng tiềm năng con người, với thiết chế kiểm soát quyền lực phù hợp và hiệu quả, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, bảo vệ vị thế độc lập và toàn vẹn thống nhất của Tổ quốc, tôn vinh và phát triển tinh thần và bản lĩnh dân tộc, nhìn từ mọi góc độ, thì nguyên vẹn chỉ dừng lại là việc “quan thì xử theo lễ, dân thì chịu hình pháp”, như Đảng ta cảnh báo và sẽ pháp luật không có lối ra. Nghĩa là, chẳng có pháp quyền chân chính nào cả.

ĐỘC LẬP CỦA ĐẤT NƯỚC, TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN - MỤC TIÊU TỐI THƯỢNG  CỦA CÔNG CUỘC LÃNH ĐẠO, CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG

Dù nhân trị hay pháp trị, kỹ trị dù cả ba hay hơn nữa, nếu tinh hoa thể chế chúng ta không bao hàm và phát triển lòng Dân và Quốc pháp - hai bảo vật quốc gia - theo tinh thần pháp quyền và dân chủ, thì rất khó nói tới bất cứ sự phát triển mong muốn nào về độc lập của đất nước, tự do và hạnh phúc của Nhân dân - mục tiêu tối thượng của công cuộc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. 

Nhìn tổng thể, Đảng cương và Quốc pháp đều phải nhằm tới giải phóng tiềm năng con người hiện thực, vươn tới tự do, bảo đảm dân tộc thực sự độc lập và lợi ích đất nước là tối thượng và thiêng liêng:

Một là, bình đẳng. Công lý chỉ có một và chỉ một mà thôi! Trước pháp luật, mọi tổ chức dù chính trị hay xã hội và mọi cá nhân, mọi giới tính và lứa tuổi đều bình đẳng. Đó là nguyên tắc vận hành một cách dân chủ theo luật định của các thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, xét về tính chỉnh thể. Công lý chỉ có một! Đó cũng chính là tính tối thượng của pháp luật, sự dân chủ của nền pháp quyền Việt Nam, dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. 

Bình đẳng là thước đo trước hết đối với công lý!

Hai là, pháp quyền. Trong toàn bộ công việc lãnh đạo kiến tạo và vận hành hệ thống chính trị, pháp luật phải là tối thượng. Không thể không xây dựng và phát triển hành lang pháp lý tổng thể và đủ mạnh để kiến tạo hệ thống chính trị đổi mới. Đó là trọng trách của pháp quyền, một bảo đảm căn bản, một động lực chủ yếu để bảo đảm thành công cuộc đổi mới hệ thống chính trị. Pháp quyền là phương thức hành động tất yếu thực thi chính trị nhân bản; và pháp luật là cái giới hạn tối thượng để thực thi dân chủ một cách tự do và minh bạch, mà tất cả đều vì Nhân dân! Nhất định đó không phải là là thứ pháp trị vị pháp trị, pháp quyền vị pháp quyền, mà là pháp trị vị tự do, pháp quyền vị dân chủ, pháp quyền vị nhân văn! Pháp quyền và đạo đức, đó là cái cần hành động lúc này. Làm trái điều đó chính là sự thất bại của công lý và vô hình làm băng hoại đạo đức.

Ngay trong việc làm trong sạch bộ máy của hệ thống chính trị, chúng ta không thể không “lấy chữ “Nhân” (nhân trị) làm trọng để giải quyết tham nhũng, làm trong sạch Đảng” nhưng càng không thể không dụng “pháp trị để thẳng tay với quốc nạn đục khoét đất nước”; chúng ta quyết không mơ hồ “không thể để pháp trị ghi trong Hiến pháp nhưng ngoài đời lại dùng nhân trị một cách không đến nơi đến chốn, chỗ này dùng luật khắt khe, chỗ kia tha thứ vì bạn bè đồng chí, một cách tùy tiện”, như có ý kiến từng chỉ trích một cách hạn hẹp, thiển cận. 

Thượng tôn pháp luật với quốc pháp bất vị thân! 

Ba là, dân chủ. Đó là mục tiêu, là động lực công cuộc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng kiến tạo hệ thống chính trị Việt Nam. Nói cách khác, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là con đường. Nó không hề mâu thuẫn với việc tiếp biến các thành tựu của nhân loại: pháp quyền hay kỹ trị… Cùng với pháp quyền, dân chủ là mục tiêu mà pháp quyền hướng tới; và đến lượt nó, pháp quyền là giềng mối để dân chủ đích thự được thực thi, chứ không phải là thứ dân chủ hình thức hay biến thái nào đó của dân chủ: dân chủ vô chính phủ, dân chủ giả hiệu… Không thể cho phép nhân danh dân chủ để đòi… dân chủ vô hạn độ, thổi phồng nhà nước kỹ trị để hạ thấp chính trị, nhân danh phê phán chính trị hóa để âm mưu và cổ xúy cho một thứ chính trị khác là chính trị đa nguyên với nhà nước kỹ trị, cốt “bẻ lái” con thuyền chính trị Việt Nam! 

Đặc trưng chính trị của Việt Nam, xét về mặt tổ chức chính trị xã hội, rằng Nhân dân không chỉ tạo ra Nhà nước mà là cả hệ thống chính trị, rằng Nhà nước chỉ là một bộ phận trong đó, kể cả Đảng. Điều này không giống các nước “dân chủ” khác. Người ta lại cũng cố quên rằng, nó là một phương thức tổ chức xã hội hiện đại - xem chế độ nhà nước chỉ là một yếu tố tồn tại nhân dân, nhưng không bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ là một hình thức tồn tại đặc biệt của Nhân dân. Tức là Nhà nước nhỏ và xã hội lớn. 

Khi Đảng thực hiện dân chủ thực sự cho Nhân dân, lãnh đạo xã hội để Nhân dân là chủ và làm chủ, nâng cao địa vị, quyền hành và năng lực làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Dân, với thái độ trọng Dân, học Dân, hiểu Dân, hỏi Dân, bàn bạc, giải thích cho Dân và hành động vì Dân, cho Dân, thì Nhà nước, Chính phủ mới được Dân tin, Dân phục, Dân yêu. Nếu không như thế, khi cứ hành động theo kiểu làm bằng được, bất chấp lòng Dân, ý Dân thì Dân oán. Mà “Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. 

Và, sự thật chưa thấy con đường xây dựng và thực thi pháp luật một cách dân chủ nào đúng đắn hơn, phù hợp hơn như thế, trong bối cảnh ngày nay! 

Bốn là, minh bạch. Dân chủ, bản thân nó đã bao hàm minh bạch. Nhưng, không có minh bạch thì không có dân chủ hoàn bị! Có thể nói, công khai là “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương” của nền dân chủ, của hệ thống chính trị được kiến tạo một cách khoa học nhằm thực thi dân chủ một cách hoàn bị. 

Vì vậy, minh bạch và công khai là hai nhân tố động lực của dân chủ để kiểm soát toàn vẹn một cách dân chủ, nhằm thực thi dân chủ một cách đúng đắn và hoàn bị, theo tinh thần pháp quyền. Nhưng, chỉ vì cái gọi là minh bạch lại đòi đẩy tới sự “bạch hóa” một cách trần trụi, vô hạn độ, vô chính trị và văn hóa, như có người kêu gào, thì chính là phản minh bạch, vô hình sỉ nhục dân chủ và báng bổ, bóp nghẹt luôn cả chính trị. Minh bạch một cách dân chủ, tuân thủ pháp quyền là con đường để giám sát và kiểm soát chính trị, không thể bỏ mặc nó leo thang đến mức bị mất kiểm soát. Vì sự phát triển của dân chủ chính là sự kiềm tỏa các quyền lực của bản thân chính trị, khuôn nó phải phục tùng một cách dân chủ, minh bạch và thật sự pháp quyền.

Làm trái đi, vô hình đặt dân chủ trên ghế “bị cáo” và việc kiểm soát quyền lực chính trị trở nên trống rỗng, thậm chí vô định. 

Năm là, phản biện. Tranh luận một cách dân chủ, công khai, bình đẳng và có văn hóa là con đường ngắn nhất, dù gập ghềnh, khó khăn, để dẫn tới chân lý. Đó là sinh khí của nền chính trị dân chủ cho Nhân dân mà chúng ta kiến tạo, bắt đầu từ mỗi thành viên của hệ thống chính trị, giữa các thành viên của toàn hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Đó cũng chính là một trong những con đường phát triển dân chủ. Những quyết sách chính trị đúng đắn một phần chỉ được xây dựng theo tinh thần đó, thông qua đối thoại, tranh luận, phản biện một cách cầu thị, khoa học và đầy trách nhiệm với sứ mệnh của quốc gia và với vận mệnh của mỗi người. 

Không độc quyền chân lý, không áp đặt tư tưởng, không chụp mũ chính trị, chỉ tuân theo pháp luật, đó cũng chính là “hàn thử biểu” của tinh thần dân chủ và pháp quyền, thấm đẫm nhân văn, bằng động lực phản biện một cách thành tâm, trong sáng, vì sự phát triển của dân tộc mà Đảng cần và đang hướng tới. 

Sáu là, trách nhiệm. Bình đẳng, dân chủ, minh bạch, phản biện… theo pháp luật tự chúng đã dẫn tới sự bảo đảm trách nhiệm và chịu trách nhiệm về pháp lý và đạo lý. Không giữ vững và bảo đảm trách nhiệm với quốc gia dân tộc, với chính mình thì mọi việc sẽ trở nên trống rỗng, thậm chí hỗn loạn, nguy hiểm đối với toàn cục hệ thống. Đây là “khoảng trống” thường bị coi nhẹ hoặc thực thi chưa thỏa đáng đây đó, trước nay, trên bình diện tổ chức thực tiễn kiến tạo và vận hành của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nghĩa là quyền lực đang nằm ngoài luật pháp.

Buông lỏng trách nhiệm, tắc trách… nhất định làm hại tất cả mọi nỗ lực về hành xử đức trị hay pháp quyền, hạ thấp vị thế từng thành viên, nhiệm vụ và thẩm quyền mỗi người trong từng bộ máy… có nguy cơ khiến cho hệ thống bạc nhược hoặc bất cập. Nói như V.I. Lê-nin, thảo luận thì thảo luận chung, nhưng trách nhiệm là của từng người. Vì không biết vận dụng nguyên tắc này nên mỗi bước đi, chúng ta lại bị khốn đốn; rằng, một người có trách nhiệm, biết rõ công việc chứ không phải là một ông quan liêu. Người đó sẽ nghiêm khắc chịu trách nhiệm về tình trạng bê trễ; và rằng đáng lẽ phải chịu trách nhiệm về công việc của mình... với ý thức rằng chính mình là người chịu trách nhiệm thì người ta lại nấp sau các ban. Đến thánh cũng không biết đâu mà lần trong các ban đó, không làm thế nào mà tìm ra được người chịu trách nhiệm cả; mọi cái đều rối tung và cuối cùng, người ta đưa ra một nghị quyết trong đó mọi người đều cùng chịu trách nhiệm.

Trách nhiệm trước lịch sử, trước Nhân dân và trực tiếp là trách nhiệm trước chính mình, trên nền tảng dân chủ, bảo đảm bằng pháp quyền, đó phải là bổn phận của các thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, dù là Đảng, Nhà nước hay bất cứ một thành viên nào khác. Hành xử trái thế là vô hình đẩy quyền lực rơi vào vũng bùn vô pháp.

Cần nhớ rằng, lý do trước hết là lòng tin của công chúng và sự ổn định của hệ thống chính trị hiện nay đều đặt trên khả năng quản lý và lãnh đạo xã hội bằng pháp luật, chứ không phải vào quá khứ. 

Bảy là, lòng tin của Nhân dân. Không có lòng tin của Nhân dân sẽ không có gì cả, mất lòng tin của Nhân dân là mất hết. Đó là chân lý ngàn đời. Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng chính là vốn quý nhất trong các tài sản của Đảng, để Đảng dẫn dắt đất nước, làm nên công trạng cho dân tộc. Vì, Đảng lãnh đạo để Nhân dân là chủ quốc gia, làm chủ đất nước. Nhờ đó, Đảng trở nên mạnh mẽ và bước qua mọi khó khăn, nhất là ở những bước ngoặt còn mất của lịch sử cách mạng 93 năm qua. Đối với Nhà nước, lòng tin của Nhân dân là Quốc bảo. Nhờ đó, Nhà nước đứng vững trước những sinh - tử khi mới ra đời và suốt gần 78 năm qua. Đây là động lực căn bản vô hình nhưng hữu hình, hàm chứa sức mạnh của thể chế chính trị nước ta, nhất là hơn 35 năm đổi mới. 

Đó là giới hạn, đồng thời là thước đo và công cụ kiểm soát về sự mạnh yếu, thăng trầm, thậm chí sinh tử của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, được bảo vệ và phát triển bằng pháp luật và bởi pháp luật./.

 

TS Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Các tin khác
Xem tin theo ngày