Quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế (HNQT) toàn diện, sâu rộng có thể hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong bất cứ tình huống nào cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của kinh tế, xã hội và giữ vững quốc phòng - an ninh.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và HNQT toàn diện, sâu rộng là quan điểm nhất quán, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ trương xây dựng đất nước của Đảng trong điều kiện mới. Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn nhất quán, vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ trương: giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới.
Quá trình phát triển của nhận thức về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và HNQT cũng thể hiện sự sáng tạo trong đường lối ngoại giao của Việt Nam, đồng thời thể hiện sự hội nhập chủ động và ngày càng sâu rộng của Việt Nam, với sự tham gia ngày càng tích cực, có trách nhiệm của nước ta tại các thể chế, tổ chức hay diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thể hiện một Việt Nam có trách nhiệm đối với quốc gia - dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình; trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Đại hội XI (năm 2011) khẳng định quan hệ giữa độc lập, tự chủ và HNQT là một trong các mối quan hệ lớn, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt(1).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”(2). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”(3). Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng sức mạnh dân tộc; trong đó, nội lực là quyết định; tranh thủ yếu tố ngoại lực và thời đại có vai trò quan trọng. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 1-4-2013, của Bộ Chính trị (khóa XI), “Về hội nhập quốc tế”, chủ trương: hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.
Đại hội XII (năm 2016) xác định: “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế,... kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”(4). Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, chủ trương: tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội XIII (năm 2021) nêu: “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế”(5). Đồng thời, Đại hội XIII cũng chỉ rõ: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia”(6).
Như vậy, Đại hội XIII của Đảng xác định, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nội dung cốt lõi bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước trong bối cảnh thế giới có những bước phát triển đột phá, biến động và thay đổi khó lường của quan hệ quốc tế, của quá trình toàn cầu hóa, tác động của quá trình biến đổi khí hậu.
Những kết quả đạt được trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Thứ nhất, thực hiện đường lối, cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, hiệu quả, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước, với bối cảnh và xu thế phát triển của thế giới.
Để bảo đảm tính độc lập, tự chủ của mình, Việt Nam đã chủ động thực hiện cải cách trong nước để đối phó với tác động không mong muốn bên ngoài, có thể ảnh hưởng đến tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nội dung trong các nội dung cốt lõi của hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Trong đó, nền KTTT định hướng XHCN là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này vừa thể hiện cách tiếp cận mới phù hợp với quy luật khách quan của nền KTTT, vừa thể hiện tư duy mới trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh HNQT toàn diện, sâu rộng. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đòi hỏi thích ứng với nền KTTT hiện đại định hướng XHCN, HNQT; không tách rời việc hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN; phù hợp với yêu cầu bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế khép kín, mà là nền KTTT mở cửa, hội nhập.
Cùng với đó, chúng ta tập trung hoàn thiện thế chế, pháp luật để huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn để phát huy sức mạnh tổng hợp; tạo môi trường cạnh tranh minh bạch và sử dụng hiệu quả các công cụ cũng như nguồn lực của đất nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ, cam kết quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam; đồng thời rà soát, hoàn thiện và chủ động thực hiện chính sách phòng vệ phù hợp.
Thứ hai, nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Với việc phối hợp đồng bộ, hiệu quả, linh hoạt các chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác, thực hiện nhất quán mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, mở rộng thị trường xuất khẩu gắn với chú trọng phát triển thị trường trong nước, tăng cường năng lực phân tích, dự báo, chủ động các kịch bản, phương án ứng phó, phản ứng chính sách phù hợp, nền kinh tế Việt Nam đã kịp thời ứng phó với những biến động, cú sốc từ bên ngoài. Điển hình là trong giai đoạn đại dịch COVID-19, Việt Nam bảo đảm được chuỗi cung ứng về lương thực trong nước và xuất khẩu được nhiều lương thực, thực phẩm ra thế giới.
Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo các tiêu chuẩn của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương thế hệ mới. Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng suất lao động xã hội. Trong giai đoạn 2011 - 2022, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội và tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng có xu hướng tăng nhanh; từ năm 2016 trở lại đây, tăng năng suất lao động xã hội dao động quanh mức 6% và tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng cũng dao động quanh mức gần 45%(7).
Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam đã tham gia bốn chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu, đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than đá); chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy; và chuỗi giá trị hàng điện, điện tử. Một số sản phẩm của Việt Nam bước đầu khẳng định thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, năng lực chống chịu được nâng cao hơn - thể hiện rõ tính độc lập, tự chủ ngày càng nâng lên trong quá trình HNQT; được thể hiện rõ qua việc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội dưới tác động nghiêm trọng, sâu rộng của đại dịch COVID-19 và chiến tranh thương mại giữa các nước lớn.
Thứ ba, tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập quốc tế.
Việt Nam không ngừng “mở rộng” và phát triển quan hệ với hầu hết quốc gia, tổ chức trên toàn thế giới; từng bước đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, nhất là với 8 đối tác chủ chốt, bao gồm Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, ASEAN, Liên minh châu Âu (EU). Trong số 8 đối tác nêu trên, có 3/5 nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7/20 nước thuộc nhóm G20, 2/7 nước thuộc nhóm G7. Các đối tác này chiếm hơn 78% GDP toàn cầu; 6/8 đối tác nêu trên đồng thời là 6 thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm trên 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, gần 70% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cũng là những đối tác viện trợ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nhiều nhất cho Việt Nam. Trong số các đối tác nêu trên, có 6 đối tác chiến lược toàn diện, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Mỹ; 2 tổ chức khu vực là ASEAN và EU. Nhìn chung, quan hệ hợp tác của Việt Nam với các đối tác chủ chốt nêu trên trong nhiều nội dung đã được triển khai hiệu quả, thực chất, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Trong năm 2019, Hiệp định Đối tác tiến bộ và toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực ở Việt Nam; năm 2020, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Theo đó, ngoài những lĩnh vực truyền thống, như tiếp cận thị trường (MA), biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS), rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), quy tắc xuất xứ, hợp tác hải quan, đầu tư, dịch vụ, pháp luật và thể chế, những FTA thế hệ mới này đem đến cho các bên ký kết cơ hội mở rộng các lĩnh vực: mua sắm chính phủ/mua sắm công, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, các vấn đề xuyên biên giới... Điểm quan trọng là FTA thế hệ mới có mức độ cam kết rộng nhất, bao phủ gần như toàn bộ lĩnh vực về hàng hóa và dịch vụ; có mức độ cam kết sâu nhất, mức cắt giảm thuế gần như về 0%; có cơ chế thực thi chặt chẽ.
Không chỉ vậy, ngoài việc hưởng lợi ích từ việc xóa bỏ hàng rào thuế quan, quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới còn là việc tiếp nhận kịp thời thông tin về thị trường, khoa học và công nghệ, hưởng các ưu đãi, được bảo vệ lợi ích chính đáng, đồng thời với trách nhiệm thực thi hiệu quả các FTA là tự hoàn thiện mình để đạt các tiêu chuẩn mới trong thực thi các FTA thế hệ mới. Đặc biệt, việc tham gia FTA thế hệ mới giúp các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng nắm bắt các cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước tham gia hiệp định. Thực tế đến nay, thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 10%/năm. Năm 2022, xuất khẩu đạt khoảng 371,5 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2021. Đây là lần đầu kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam vượt mốc 700 tỷ USD.
Thứ tư, nâng cao tiềm lực kinh tế, đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời, có tích lũy để đầu tư phát triển, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Sau giai đoạn đầu của công cuộc Đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%. Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP đạt khoảng 7%. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII, Việt Nam từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, biểu hiện ở việc tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức 6,8%, đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5 đến 7% của kế hoạch 5 năm 2016 - 2020(8). Mặc dù năm 2020, 2021, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng lần lượt là 2,91 và 2,58%, là một trong những nước hiếm hoi có tăng trưởng dương trong khu vực và trên thế giới trong giai đoạn này. Năm 2022, tăng trưởng GDP hơn 8%. Quy mô nền kinh tế ngày càng được cải thiện. Sau gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng từ khoảng 4 tỷ USD khi bắt đầu đổi mới lên hơn 400 tỷ USD trong năm 2022.
Thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, với khoảng 90% dân số làm nông nghiệp, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Luôn gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện qua chỉ số HDI có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như thứ hạng. Chỉ số HDI năm 2019 của Việt Nam là 0,704. Năm 2021, giá trị HDI của Việt Nam là 0,703 về cơ bản không thay đổi so với năm 2019 (0,704) và Việt Nam đã tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu từ 117 trên 189 quốc gia vào năm 2019 lên 115 trên 191 quốc gia vào năm 2021. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều liên tục giảm. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều năm 2022 là 4,03%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021 và giảm bình quân 0,81 điểm phần trăm trong giai đoạn 2016 - 2022.
Tuy nhiên, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và HNQT cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, từ Trung ương đến địa phương, giữa các bộ, ngành, trong giới doanh nghiệp và nhân dân nói chung còn chưa đạt được sự nhất trí cao trong nhận thức và hành động trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và HNQT. Vẫn còn biểu hiện chủ quan, nóng vội, đơn giản, trong khi một số cán bộ bảo thủ, cầm chừng, lo ngại nhiều đến lợi ích cục bộ. Hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ về mặt kinh tế là sự nghiệp chung của toàn xã hội, song việc triển khai mới chỉ được thực hiện chủ yếu ở một số bộ, ngành ở Trung ương. Việc phối hợp giữa các bộ, ngành chưa thật chặt chẽ và đồng bộ, do đó quá trình triển khai còn thiếu sự thống nhất, đôi khi còn nặng về coi trọng lợi ích cục bộ của bộ, ngành mình, làm ảnh hưởng chung đến quá trình HNQT.
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp, tổ chức và địa phương vẫn còn lúng túng trong việc nhận thức sâu sắc nội dung của các điều khoản mà Việt Nam đã cam kết, các quy định, quy tắc của các FTA cả thế hệ cũ và thế hệ mới, do đó chưa thật sự chủ động HNQT, ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm độc lập, tự chủ trong quan hệ kinh tế - thương mại. Chẳng hạn, vẫn chưa chủ động trong xuất khẩu, khiến Việt Nam bị “thua” ngay cả ở những mặt hàng có thế mạnh, như gạo, cà-phê. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, nhưng chủ yếu vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, năng suất lao động thấp, có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực.
Với độ mở của nền kinh tế khá lớn (trên dưới 200% nếu lấy tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu so với GDP), sản xuất và xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên, vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, chi phí nguyên, vật liệu nhập khẩu chiếm khoảng 40% trong tổng chi phí nguyên, vật liệu dùng trong sản xuất của nền kinh tế. Khi nguyên, vật liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất phụ thuộc vào một số ít thị trường sẽ gây rủi ro đối với kinh tế Việt Nam khi các thị trường này xảy ra biến cố hoặc môi trường địa - chính trị, địa - kinh tế có nhiều biến động.
Đề xuất một số định hướng cơ bản trong bối cảnh mới
Bối cảnh quốc tế giai đoạn hiện nay có một số đặc điểm quan trọng tác động mạnh mẽ đến định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập và tự chủ, đó là:
Một là, thế giới đang đứng trước nhiều bất ổn khó lường. Gia tăng các xung đột, biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng nặng nề. Lạm phát trên một số nền kinh tế lớn đang có xu hướng gia tăng. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu đứng trước nguy cơ suy giảm.
Hai là, thế giới đang hội nhập và chia tách đan xen. Một mặt, các FTA thế hệ mới, kết nối khu vực được đẩy mạnh; mặt khác, xu thế chia tách cũng đang xuất hiện. Điển hình nhất là việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (Brexit) và xung đột Nga - U-crai-na, Nga bị cấm vận và thế giới càng bị chia tách.
Ba là, xuất hiện các nguy cơ an ninh phi truyền thống. Các mối nguy cơ an ninh phi truyền thống, như đại dịch COVID-19 chưa có tiền lệ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu. Biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn so với dự báo cũng đem lại những tác động không nhỏ về nước biển dâng, ngập mặn, hạn hạn, lũ lụt, sóng thần... đối với các quốc gia.
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Để làm được điều này, cần lưu ý một số định hướng sau:
Một là, giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, bài học kinh nghiệm qua gần 40 năm đổi mới để bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả HNQT. Trong đó lưu ý:
- Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và HNQT. Đây là vấn đề mang tầm chiến lược của mỗi quốc gia trong tiến trình HNQT. Nếu không giữ được độc lập, tự chủ thì quốc gia - dân tộc sẽ không thể hội nhập sâu, không thể có được vị trí, vai trò trong chỉnh thể thế giới, mà sẽ chỉ là một bộ phận lệ thuộc vào các cấu phần khác của chỉnh thể thế giới. Ngược lại, càng hội nhập sâu, càng có vị trí, vai trò trong chỉnh thể thế giới, thì quốc gia hội nhập càng có điều kiện củng cố, tăng cường và phát huy độc lập, tự chủ của mình, càng có thể chủ động và tích cực tương tác với các cấu thành khác trong chỉnh thể thế giới, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Giữ vững độc lập, tự chủ trong HNQT và củng cố, tăng cường, phát huy độc lập, tự chủ thông qua HNQT là hai mặt quan hệ biện chứng; cái này là tiền đề cho cái kia. Muốn HNQT hiệu quả, nhất thiết phải giữ vững độc lập, tự chủ. Muốn củng cố, tăng cường và phát huy độc lập, tự chủ, nhất thiết phải chủ động và tích cực HNQT.
- Thường xuyên xem xét, đánh giá những tác động của các bước đi trong quá trình hội nhập đến sự phát triển ổn định của đất nước để có quyết sách phù hợp. Nhìn một cách tổng thể, tiến trình HNQT luôn thúc đẩy sự phát triển của quốc gia hội nhập, khi gắn kết sự phát triển của quốc gia với các xu thế phát triển của thế giới. Đây cũng là một nội dung quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, không phải lúc nào các bước đi hội nhập cũng tác động thuận đến sự ổn định và phát triển của đất nước; có thể có cả tác động không thuận, nhất là khi HNQT không dựa trên thực lực của đất nước hay không giữ vững được độc lập, tự chủ trong HNQT. Vì vậy, phải luôn xem xét, cân nhắc cụ thể tác động bất lợi có thể có của mỗi bước đi hội nhập đến sự ổn định và phát triển của đất nước để có quyết sách tối ưu.
Hai là, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, qua đó, vừa khai thác tiềm năng, lợi thế của các thị trường, vừa tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác, nhất là khi thị trường hay đối tác đó có sự biến động. Thực hiện nhiều hình thức HNQT với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước từng giai đoạn.
Ba là, hướng hệ thống quản trị trong nước từng bước theo các tiêu chuẩn chung của quốc tế. Trong đó, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và HNQT, Việt Nam đã ký kết, tham gia nhiều điều ước, cam kết quốc tế và các FTA thế hệ mới với những cam kết sâu rộng, toàn diện. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả HNQT, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Bốn là, định hướng phát triển kinh tế bảo đảm nền kinh tế độc lập, tự chủ trong chủ động, tích cực HNQT toàn diện, sâu rộng. Trong đó cần lưu ý:
- Kiên định xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH. Mọi thành phần kinh tế đều đóng góp vào xây dựng đất nước, xây dựng CNXH. Hoàn thiện chủ trương đường lối, thể chế, cơ chế, chính sách xây dựng nền KTTT định hướng XHCN trong giai đoạn mới - là nền kinh tế có thu nhập trung bình (thấp), vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
- Kiên định phương châm vốn nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định. Kết hợp hài hòa vốn trong nước và vốn ngoài nước trong tổng thể phát triển nền kinh tế. Bảo đảm các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong phát triển kinh tế. Kiên định phương châm kinh tế nhà nước là nền tảng, kinh tế tư nhân là động lực phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân phối hợp đồng bộ với nhau, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kiên định phương châm Nhà nước làm tốt vai trò tạo dựng môi trường, kinh tế mở đường, tạo cơ sở cho kinh tế tư nhân tăng trưởng và đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế.
- Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước. Cần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển lớn mạnh, bảo đảm tốt an ninh kinh tế và không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, khả năng chống chịu trước tác động tiêu cực từ bên ngoài để khắc phục những nhược điểm hiện hữu của doanh nghiệp Việt Nam./.
-------------------------
(1), (2), (3) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73, 75, 102
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 111
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135
(7) Lợi Minh Thanh, Hà Thị Việt Thúy: Vai trò, tác động của năng suất nhân tố tổng hợp đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Tạp chí Công Thương điện tử, ngày 5-5-2022, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/vai-tro-tac-dong-cua-nang-suat-nhan-to-tong-hop-doi-voi-tang-truong-kinh-te-viet-nam-88348.htm
(8) Cổng thông tin điện tử Viện Chiến lược và Chính sách tài chính: Nguyễn Đức Kiên: Kinh tế Việt Nam - Nhìn lại sau 35 năm đổi mới, ngày 14-1-2021, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM194860