TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 10.009.215
Truy câp hiện tại 2.987
Sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Ngày cập nhật 14/01/2010

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh đạo của Đảng.


Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập Đảng ta - đã thấy phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì cách mạng mới thành công.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong đấu tranh mà trưởng thành".

Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc tính đúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã nêu lên một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc làm thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng phát triển vững chắc, nhằm thực hiện mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

I- VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG LỊCH SỬ VÀ HIỆN TẠI

1. Đảng Cộng sản Việt Nam - người duy nhất giữ vai trò lãnh đạo cách mạng từ nǎm 1930


Ngày 3-2-1930, lịch sử Việt Nam diễn ra một sự kiện trọng đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

Đảng ta ra đời là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của đồng chí Nguyễn ái Quốc và các đồng chí tiền bối của Đảng. Đồng chí Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam. Người đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để tổ chức ra Đảng ta. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đề ra đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, vạch ra cương lĩnh cách mạng của Đảng một cách đúng đắn ngay từ đầu. Nhờ đó mà Đảng sớm trở thành một lực lượng chính trị vững mạnh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hơn 60 nǎm qua, lịch sử Việt Nam ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Vai trò đó không ngừng được mở rộng và nâng cao, vượt qua mọi sự chống phá của kẻ thù và sự tranh chấp của những thế lực đối lập.

Việc Đảng ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng là điều tất yếu, khách quan, phù hợp với quy luật của thời đại và điều kiện hiện thực của Việt Nam. Sự phù hợp với quy luật của thời đại được chứng minh bởi vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Mác- Lênin. Còn điều kiện hiện thực của Việt Nam được nhận thức qua phân tích tính chất, đặc điểm xã hội Việt Nam; tình hình và thái độ các giai cấp, tầng lớp xã hội; từ đó thấy những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội và đòi hỏi khách quan của lịch sử đối với giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng - đội tiên phong của giai cấp.

2. Sự lãnh đạo của Đảng - nguồn gốc thành công của công cuộc giải phóng dân tộc

Lịch sử Việt Nam ghi nhận: từ khi thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta đã liên tiếp diễn ra nhiều cuộc đấu tranh yêu nước, song tất cả đều thất bại.

Khi Đảng ta ra đời, dân tộc ta vẫn đứng trước một nhiệm vụ lịch sử to lớn: tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập của đất nước.

Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là thành quả đầu tiên của cuộc đấu tranh đó, đã lật đổ ách thống trị đế quốc, phátxít cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến, thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ. Tiếp đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Bắc sau đó giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ. Công cuộc giải phóng dân tộc được hoàn thành triệt để từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975 được bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.

Trước thực tế lịch sử hiển nhiên đó, mà vẫn có người cố tình phủ nhận hoặc hạ thấp ý nghĩa, vai trò của Đảng đối với những thắng lợi của dân tộc Việt Nam thì là điều phi lý. Và thực tế lịch sử đó cũng đã bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.

- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi do có những điều kiện khách quan thuận lợi, song nếu thiếu những điều kiện chủ quan, nhất là thiếu sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thì cách mạng không thể thành công. Đảng đã lãnh đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa một cách chu đáo, đồng thời nắm vững thời cơ lịch sử để phát động Tổng khởi nghĩa trong những ngày tháng tám. Đó là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945.

- Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, trước hết do Đảng đề ra và nắm vững đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài. Đảng lại giải quyết đúng hàng loạt vấn đề trọng yếu: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện từng bước vấn đề ruộng đất cho nông dân, chǎm lo phát triển sản xuất trong kháng chiến, xây dựng hậu phương, phục vụ kháng chiến, công tác vùng địch tạm chiếm, v.v..

- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử, một thử thách lớn đối với Đảng và dân tộc Việt Nam. Đảng đã khéo kết hợp sức mạnh của hai miền Nam - Bắc, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại. Đường lối chính trị, quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng sáng tạo do Đảng đề ra, không những đã tránh cho dân tộc bị mất nước, làm nô lệ, mà còn giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

3. Vai trò của Đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa

Tiếp tục sự nghiệp và truyền thống của Đảng đã giữ vai trò lãnh đạo cách mạng ngay khi ra đời, sau khi giành được chính quyền, từng bước thực hiện chuyển biến giai đoạn cách mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo tiến trình cách mạng của dân tộc. Đây là thực tế lịch sử đã diễn ra ở miền Bắc từ tháng 7 nǎm 1954 và trên cả nước từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975- giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đã và sẽ tiếp tục là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi, vì:

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng tự giác. Chỉ có Đảng, người nắm vững lý luận Mác - Lênin, mới nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật phát triển của xã hội, đề ra đường lối và phương pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn nước ta.

- Trong thời kỳ quá độ, tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, có những lợi ích và nhận thức khác nhau, nhưng sự lãnh đạo của Đảng đã bảo đảm thực hiện đúng đắn các mối quan hệ kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động - mục tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Về tổ chức thực tiễn, do trong xã hội có nhiều tổ chức khác nhau, cần quy tụ sự hoạt động của mọi tổ chức xã hội nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đóng vai trò người tổ chức, phối hợp sự hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, đoàn thể và tổ chức xã hội.

Trước đây, ở miền Bắc đã từng có những lực lượng thù địch và đối lập đòi Đảng chia quyền lãnh đạo. Ngày nay, lại có một số người chịu ảnh hưởng của thuyết đa nguyên chính trị, đòi lập chế độ đa đảng, đòi xét lại vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi Đảng trả lại quyền cho "nhân dân"... thực chất là tìm cách thủ tiêu, hoặc hạ thấp vai trò của Đảng. Song sự thật lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã chứng tỏ rằng:

- Đảng ta nắm vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng là một tất yếu lịch sử.

- Có sự lãnh đạo của Đảng ta mới có những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

- Tình trạng có nhiều lực lượng đối lập trong xã hội không phải là biểu hiện của dân chủ chân chính; ngược lại, làm trở ngại, khó khǎn cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là bài học lớn của lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc.

II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG

Vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng là tất yếu khách quan song không phải được hình thành một cách ngẫu nhiên mà Đảng ta đã phải đấu tranh và phấn đấu gian khổ để tạo ra những điều kiện nhằm củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, đồng thời thường xuyên phấn đấu nâng cao nǎng lực và hiệu quả lãnh đạo bảo đảm thắng lợi ngày càng nhiều, hạn chế được sai lầm, khuyết điểm.

Thực tế trên chứng tỏ Đảng ta tuân thủ nghiêm ngặt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.

Sự lãnh đạo của Đảng chỉ được củng cố khi có tổ chức đảng vững mạnh. Vì thế, việc nâng cao nǎng lực lãnh đạo phải gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm làm cho Đảng luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong cách mạng của giai cấp và dân tộc.

A- KINH NGHIỆM VỀ XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ

Là người lãnh đạo chính trị của giai cấp và dân tộc, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là đề ra đường lối chính trị đúng đắn. Đường lối chính trị đúng là nhân tố trọng yếu nhất để xác lập, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, là điều tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Đường lối chính trị đúng đắn thể hiện nǎng lực và hiệu quả của sự lãnh đạo, còn là nhân tố quyết định tính chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng.

Những thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta hơn 60 nǎm qua đã chứng minh đường lối chính trị của Đảng ta cǎn bản là đúng đắn. Tuy nhiên, Đảng ta đã mắc một số sai lầm, khuyết điểm, lớn nhất là sai lầm trong lãnh đạo cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1954-1956) và sai lầm về chỉ đạo chiến lược, về một số chủ trương, chính sách lớn trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước (1975-1985). Từ thực tế lịch sử các mặt trên, có thể rút ra những kinh nghiệm:

1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp đúng đắn những nguyên lý phổ biến với đặc điểm dân tộc

Đồng chí Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi rõ, Đảng lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc.

Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng từ khi ra đời đến nay, thấy rõ: khi quyết định đường lối trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong lãnh đạo khởi nghĩa cũng như chiến tranh cách mạng, Đảng ta đều quán triệt, vận dụng sáng tạo những nguyên lý, quan điểm... của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Đảng luôn coi trọng giáo dục phương pháp tư duy lý luận khoa học, tránh mắc giáo điều hay xét lại, phủ nhận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam thật sự là kết quả của sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin sát hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn ái Quốc vạch ra khi thành lập Đảng là một tiêu biểu cho sự vận dụng sáng tạo trên. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản; cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, tự lực, tự cường và đoàn kết hợp tác quốc tế... Trong đó, yếu tố dân tộc, tinh thần yêu nước, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được coi là chủ yếu nhất, phù hợp với đặc điểm và truyền thống dân tộc ta, một dân tộc có tinh thần yêu nước nồng nàn, kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm.

Vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với đặc điểm dân tộc, đòi hỏi phải tránh khuynh hướng thổi phồng đǎc điểm dân tộc, coi nhẹ quy luật phổ biến, hoặc ngược lại. Cả hai đều dẫn đến sai lầm xét lại hoặc giáo điều, hữu hoặc "tả" khuynh.

2. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo

Muốn vận dụng đúng đắn học thuyết Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm dân tộc, đòi hỏi phải có tinh thần độc lập, tự chủ, với phương pháp tư duy khoa học, sáng tạo.

Nét nổi bật và cũng là cơ sở của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng ta và đồng chí Nguyễn ái Quốc đánh giá đúng sức mạnh của yếu tố dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, lập mặt trận đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại...

Sử dụng sức mạnh bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến của mọi cuộc đấu tranh giải phóng. Vận dụng sáng tạo quy luật ấy, Đảng ta cho rằng: "Bạo lực cách mạng nhằm lật đổ giai cấp thống trị nhất thiết phải là bạo lực của quần chúng". Mặc dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song khái quát chung lại, "bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu tranh: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy".

Đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, đó là quy luật phổ biến. ở Việt Nam trong cuộc vận động thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong các tổ chức yêu nước, và dựa vào đó, thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - tổ chức tiền thân của Đảng. Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

Để vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, cần chống bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm. Nguồn gốc của chủ nghĩa kinh nghiệm là trình độ lý luận thấp và hiểu biết thực tiễn không sâu. Còn nguồn gốc của chủ nghĩa giáo điều là nắm lý luận một cách sách vở và rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, không chú ý đầy đủ đến đặc điểm dân tộc.

3. Bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể, giữa chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể

Trong lãnh đạo cách mạng, điều quan trọng hàng đầu là vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn. Kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta chỉ rõ: đường lối chiến lược đúng bảo đảm cho cách mạng phát triển thuận lợi, vững vàng trong mọi tình huống, đoàn kết được nội bộ, do đó mà cách mạng chắc chắn thành công. Song nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi phải cụ thể hoá đường lối thành chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện, phải đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt, bước đi, hình thức tổ chức, phương pháp tiến hành cụ thể. Kinh nghiệm cho thấy: lãnh đạo chính trị mà dừng lại ở đường lối chung, không cụ thể hoá đường lối sát đúng từng thời kỳ với những điều kiện lịch sử cụ thể thì đường lối chung không thể trở thành hiện thực được. Trong thực tế, ban đầu thường chỉ có thể vạch ra những nét lớn, nét cơ bản nhất, sau đó phải từng bước cụ thể hoá đi tới hoàn chỉnh đường lối thành một hệ thống nhất quán từ đường lối chiến lược đến các chủ trương, chính sách lớn.

Đảng ta đã có nhiều thành công trong việc cụ thể hoá đường lối. Thí dụ: sau khi xác định mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản lâu dài của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đánh đổ đế quốc và địa chủ phong kiến, giành "độc lập dân tộc" và "người cày có ruộng", Đảng đã xác định đúng mục tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng thời kỳ 1930-1931, 1932-1935, 1936-1939, 1939-1945... Đảng ta đã kết hợp một cách đúng đắn mục tiêu lâu dài của giai đoạn cách mạng với mục tiêu trước mắt của từng thời kỳ. Kinh nghiệm cho thấy: mục tiêu cụ thể phải thích hợp với từng thời kỳ, nhưng vẫn phải quán triệt tư tưởng của đường lối chiến lược.

Những sai lầm, khuyết điểm trong thời kỳ 1975-1985 như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra, trong đó có sai lầm về chỉ đạo chiến lược không thật sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, nên đề ra một số chủ trương, chính sách lớn không phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ cụ thể của chặng đường đầu.

Nhiệm vụ lãnh đạo chính trị của Đảng hiện nay đòi hỏi tiếp tục hoàn chỉnh và cụ thể hoá đường lối một cách đồng bộ và nhất quán.

4. Hướng vào thực tiễn mà kiểm nghiệm, hoàn chỉnh cụ thể hoá đường lối

Để có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, Đảng phải tuân theo các quy luật khách quan. Chủ quan, duy ý chí đã là nguồn gốc của nhiều sai lầm, dẫn tới nhiều tác hại trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề đặt ra làm thế nào để nhận thức được đúng quy luật khách quan - nhất là tìm ra được nội dung và cơ chế tác động của quy luật trong điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta. ở đây, không thể chỉ cǎn cứ vào nguyên lý có sẵn của học thuyết Mác - Lênin, đề ra đường lối, chính sách, quá trình biến lý luận và đường lối thành hành động của hàng triệu quần chúng, và nhờ tổng kết thực tiễn, Đảng mới dần dần nhận thức và vận dụng được quy luật một cách đúng đắn.

Lịch sử chứng tỏ rằng Đảng ta, tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối cách mạng dân tộc đúng đắn ngay từ đầu. Song, đó mới chỉ là những nét cơ bản. Thực tiễn đấu tranh cách mạng đã giúp Đảng ta hoàn chỉnh, cụ thể hoá đường lối, từng bước nhận thức đúng đắn những quy luật vận động cách mạng.

Thái độ hoài nghi tính đúng đắn của đường lối, chính sách là một sai lầm. Song, không bám sát những diễn biến của thực tiễn trong quá trình thực hiện để kiểm nghiệm, phát triển, cụ thể hoá đường lối, chính sách sẽ không nâng cao được hiệu quả lãnh đạo. Thực tiễn còn cho thấy, nếu Đảng mắc sai lầm trong việc định chủ trương, chính sách, lại quan liêu, xa rời thực tiễn, thì sai lầm có thể kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng.

Coi trọng khảo sát thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, trân trọng sáng kiến của các địa phương và cơ sở, đó là những kinh nghiệm quý, rất cần thiết cho việc hoàn chỉnh, cụ thể hoá đường lối, chính sách ngày càng đúng đắn.

B. KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG

Nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, một nhiệm vụ trọng yếu là thường xuyên tiến hành công tác tư tưởng trong Đảng đồng thời lãnh đạo công tác tư tưởng trong mọi tổ chức và toàn xã hội. Công tác tư tưởng có nhiệm vụ góp phần làm phong phú và quán triệt học thuyết Mác-Lênin, tạo cơ sở cho việc đề ra đường lối chính trị đúng đắn, truyền bá thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng cùng đường lối của Đảng trong các cấp bộ đảng và toàn dân; nâng cao nhận thức và cổ vũ nhân dân hành động theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra; đấu tranh chống những quan điểm tư tưởng sai trái, phản động.

Những nét chính của quá trình Đảng ta lãnh đạo công tác tư tưởng như sau:

- Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng tập trung tuyên truyền sâu rộng nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên, dựa vào đó mà giáo dục ý thức cách mạng, động viên quần chúng đấu tranh. Gắn với việc truyền bá Cương lĩnh, Đảng phê phán chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia dân tộc hẹp hòi, chống khuynh hướng khủng bố cá nhân, không thấy vai trò quyết định của quần chúng.

- Trong cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng hướng công tác tư tưởng vào việc quán triệt chủ trương lập Mặt trận dân chủ, đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ, dân sinh, uốn nắn các khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, không thấy cần phải tranh thủ, lôi kéo các tầng lớp trung gian và tầng lớp trên; có khuynh hướng lại quá đề cao các tầng lớp này, coi nhẹ vai trò công nông. Khuynh hướng sai lầm khác là coi thường hoặc quá say sưa với hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp.

- Trong cao trào cách mạng 1939-1945, trên cơ sở chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược sát đúng là tập trung thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, công tác tư tưởng của Đảng đã khơi dậy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng mặt trận dân tộc cứu nước rộng rãi, đẩy mạnh xây dựng lực lượng và đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Đảng cũng phê phán tư tưởng hữu khuynh, rụt rè không dám đẩy mạnh đấu tranh phù hợp với điều kiện và thời cơ lịch sử, đồng thời chống khuynh hướng nóng vội, muốn khởi nghĩa sớm khi điều kiện chưa thật chín muồi.

- Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng tiếp tục bồi dưỡng tinh thần yêu nước, động viên toàn dân cống hiến sức lực, của cải, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Phê phán, sửa chữa sai lầm trong thực hiện chủ trương chỉnh đốn Đảng và cải cách ruộng đất về mặt công tác tư tưởng là giản đơn, giáo điều, gò ép ... gây nên những khó khǎn, tổn thất cho Đảng và cách mạng.

- Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng coi trọng công tác nghiên cứu và giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tuyên truyền, phổ biến đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, làm cho nhân dân hiểu biết và tin theo chủ nghĩa xã hội. Song trên lĩnh vực lý luận đã phạm một số sai lầm, nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mắc bệnh giáo điều, rập khuôn, làm cho việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách không được sát đúng với thực tiễn nước ta. Bệnh chủ quan, một chiều cũng chi phối công tác giáo dục tư tưởng. Dân chủ hoá trong sinh hoạt tư tưởng và hoạt động xã hội chưa được coi trọng, chưa uốn nắn kịp thời và phê phán sắc bén những khuynh hướng cực đoan về các mặt trên.

Từ quá trình lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng, có thể nêu lên những kinh nghiệm sau:

- Cần nắm vững công tác lý luận, làm cho lý luận luôn bám sát thực tiễn, thực sự có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã có nhiều thành tựu về nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam. Sự lạc hậu về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bệnh giáo điều, sùng bái kinh nghiệm nước ngoài; mặt khác, lại chủ quan, duy ý chí, không coi trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.

Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang đòi hỏi đảng phải đổi mới tư duy lý luận , nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội. Để làm việc đó, cần khắc phục nếp nghĩ giáo điều, chủ quan, duy ý chí, đề cao tinh thần sáng tạo, đi sâu tổng kết quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, tham khảo kinh nghiệm của các nước, từ đó rút ra những kết luận, từng bước đổi mới và nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta.

- Nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, cần gắn việc giáo dục tư tưởng với đường lối, chính sách của Đảng. Tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị, là cái cốt lõi của đường lối, chính sách. Hiểu đường lối, chính sách, trước hết là quán triệt tư tưởng chính trị chỉ đạo đường lối, chính sách đó. Trong lịch sử công tác tư tưởng của Đảng, nhìn chung, Đảng ta đã xuất phát từ những mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn, từng thời kỳ để đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp công tác tư tưởng, vừa bảo đảm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, vừa nâng cao trình độ chính trị, giác ngộ cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

- Lãnh đạo tư tưởng phải bảo đảm tính đảng, tính khoa học. Đó là những nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng. Hết sức tránh những sai lầm đã diễn ra trong lịch sử như gò ép, chủ quan, giản đơn một chiều..., đề cao dân chủ, tôn trọng sự thật là điều kiện để làm tốt công tác tư tưởng. Song, phải tránh những khuynh hướng cực đoan lợi dụng dân chủ để xuyên tạc sự thật, làm lạc hướng tư tưởng. Đối với lịch sử, truyền thống, quá khứ... cần khắc phục cách nhìn theo kiểu "tô hồng", chỉ thấy thắng lợi, thành công, ưu điểm, song phải chống khuynh hướng "bôi đen", nhìn lịch sử chỉ thấy sai lầm và thất bại...

C. KINH NGHIỆM VỀ LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Vai trò lãnh đạo chính trị đòi hỏi Đảng nắm vững và làm tốt mặt lãnh đạo tổ chức và tổ chức công tác thực tiễn. Theo học thuyết Mác - Lênin, Đảng không phải là một câu lạc bộ, mà là đội tiên phong trong cuộc đấu tranh nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, Đảng hành động cách mạng bằng tổ chức, do đó phải gắn việc xác định đường lối, lãnh đạo tư tưởng với lãnh đạo tổ chức.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã nhận rõ ý nghĩa trọng yếu của công tác tổ chức. "Nếu công việc đó làm không đúng thì nguy hại cho Đảng rất lớn".

Thử thách lớn đầu tiên đối với nǎng lực lãnh đạo tổ chức của Đảng ta là ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, chứng tỏ Đảng ta không chỉ thành công trong việc vạch đường lối chính trị, mà còn trong lãnh đạo tổ chức. Có thể khẳng định khi hoạt động bí mật, khi công khai, trong lãnh đạo khởi nghĩa cũng như tiến hành chiến tranh cách mạng, Đảng ta đều coi trọng công tác tổ chức, từng bước đạt tới trình độ khoa học, bảo đảm động viên, tập hợp mọi lực lượng và nǎng lực đó một cách có hiệu quả.

Chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác tổ chức có quy mô rộng lớn, với những nội dung mới mẻ, với những khó khǎn, phức tạp hơn nhiều. Đảng trở thành người lãnh đạo thực tế toàn bộ xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, vǎn hoá, tư tưởng... Đảng không chỉ lãnh đạo tổ chức thực hiện những nhiệm vụ chính trị, mà còn lãnh đạo việc tổ chức quản lý toàn bộ đời sống xã hội.

Mặc dù còn nhiều yếu kém, và khuyết điểm trong tổ chức thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, song Đảng ta cũng đã có những thành công nhất định và từng bước nâng cao tri thức, kinh nghiệm về mặt này.

Dưới đây là một số kinh nghiệm về lãnh đạo tổ chức, nhất là tổ chức thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

1. Bảo đảm tính đúng đắn của các quyết định cụ thể

Ra quyết định cụ thể, đó là khâu đầu tiên để bảo đảm hiệu quả của tổ chức hoạt động thực tiễn.

Những nǎm qua, Đảng và Nhà nước ta, từ trung ương tới cơ sở đã phạm một số sai lầm trong việc ra quyết định. Đó là tình trạng quyết định chung chung, không hiệu quả đối với thực tiễn. Đó là tình trạng chồng chéo, phủ định lẫn nhau, gây trở ngại cho quá trình thực tiễn, còn mang tính chủ quan, gắn ép, thiếu sát thực.

Kinh nghiệm thực tiễn đòi hỏi phải:

- Xuất phát từ thực tế khách quan trong quá trình chuẩn bị và ra quyết định.

Để làm việc đó, cần tiến hành điều tra nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc về đặc điểm của ngành, của địa phương, cơ sở..., cần coi trọng những sáng kiến của địa phương, của cơ sở đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Đối với những quyết định quan trọng, nên tiến hành thử nghiệm ở một số địa phương, đơn vị, sau hoàn chỉnh thành quyết định chung.

- Hết sức hạn chế tình trạng chồng chéo, trái ngược nhau giữa các quyết định.

ở đây, cần tránh tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương, đồng thời phải có sự điều hành đúng đắn và tập trung của cấp trên, của người lãnh đạo và quản lý các đơn vị giống như điều khiển của nhạc trưởng đối với cả dàn nhạc. Đặc biệt lưu ý bảo đảm tính nhất quán giữa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với quyết định cụ thể của ngành, địa phương; quyết định cụ thể của ngành, địa phương phải bảo đảm thực hiện đường lối, chính sách, chứ không được trái ngược, gây trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chung.

2. Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức với hoạt động kinh tế - xã hội

- Nhằm vào mục tiêu tổ chức, hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần gắn chặt công tác tư tưởng và công tác tổ chức.

Trong hoạt động thực tiễn thường không kết hợp chặt chẽ hai mặt công tác tư tưởng và công tác tổ chức. Thực tiễn cho thấy, tư tưởng tách rời tổ chức sẽ sa vào lý thuyết suông, phong trào cách mạng sẽ không thể sâu rộng và bền bỉ; ngược lại, công tác tổ chức không gắn liền với công tác tư tưởng sẽ rơi vào mệnh lệnh, gò ép, làm mất tính tự giác của phong trào cách mạng. Kết hợp tư tưởng với tổ chức bảo đảm tinh thần tự nguyện, tự giác của quần chúng, và dựa trên cơ sở đó, đưa quần chúng đi vào hành động cách mạng có tổ chức, mọi người chấp hành nhiệm vụ theo những thể chế và nguyên tắc thống nhất.

- Trong thời kỳ cách mạng mà các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trở thành trọng tâm cần gắn chặt công tác tư tưởng, công tác tổ chức với hoạt động kinh tế - xã hội.

Hoạt động lãnh đạo kinh tế là vạch ra đường lối chiến lược, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế... Đảng chỉ quyết định đúng những vấn đề đó khi đứng vững trên quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giữ vai trò định hướng cho những hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế mà tách rời tư tưởng chính trị, không lấy mục tiêu xã hội chủ nghĩa làm điểm xuất phát cho những chủ trương, chính sách kinh tế thì sẽ mất phương hướng. Ngược lại, công tác tư tưởng và tổ chức mà tách rời với những hoạt động kinh tế thì sẽ không còn nội dung sát thực và do đó sẽ hạn chế tác dụng đối với đời sống kinh tế - xã hội.

3. Nâng cao hiệu lực của bộ máy, tǎng cường công tác cán bộ

Nhằm tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cách mạng, nhất thiết phải xây dựng bộ máy có hiệu lực.

Trong lãnh đạo khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã giải quyết thành công vấn đề bộ máy. Kinh nghiệm là phải đặt bộ máy trong mối quan hệ với nhiệm vụ cách mạng, trong sự vận động của thực tiễn cách mạng. Đảng xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, ra sức làm cho bộ máy đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ, đồng thời phấn đấu làm cho tổ chức và cơ chế hoạt động của nó phù hợp với thực tiễn nước ta ở từng thời kỳ lịch sử.

Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, bộ máy bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cách mạng là toàn bộ hệ thống Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, xã hội. Vấn đề bao trùm là xác định đúng vai trò, chức nǎng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ giữa các tổ chức nói trên. Vai trò và mối quan hệ đó phải được cụ thể hoá phù hợp với mọi ngành, mọi cấp, bảo đảm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống bộ máy trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đối với mỗi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, quần chúng..., công tác tổ chức thực tiễn lại đòi hỏi Đảng lãnh đạo, xây dựng tổ chức như thế nào cho đúng. ở đây, cần vận dụng kinh nghiệm thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ là phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng để tổ chức bộ máy. Hơn thế, để tác động tích cực đến đối tượng tổ chức phải phản ánh đúng những yêu cầu khách quan của nó. Mọi vấn đề về tổ chức mà xuất phát từ ý chí chủ quan, như vì con người mà lập ra tổ chức, phát triển tổ chức vì động cơ cá nhân ... đều dẫn đến sai lầm, làm giảm hiệu quả của tổ chức.

- Bộ máy có vai trò rất quan trọng, nhưng suy đến cùng thì "cán bộ quyết định tất cả". Vì thế, việc đào tạo, phân công, đề bạt... cán bộ, phải là một trong những mối quan tâm lớn của Đảng.

Sau khi chính quyền cách mạng được thiết lập, đương nhiên các cơ quan nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết vấn đề cán bộ của mình. Song, Đảng không thể không nắm vấn đề cán bộ, Đảng không thể buông lỏng lãnh đạo ở khâu có ý nghĩa quyết định đó.

Kinh nghiệm giải quyết vấn đề cán bộ là phải xuất phát từ yêu cầu bảo đảm nhiệm vụ cách mạng mà bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mặt khác, phải nhận thức rõ mối quan hệ giữa tổ chức với cán bộ: cán bộ phải thích ứng với đòi hỏi của tổ chức, bảo đảm cho tổ chức hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại, tổ chức phải tạo điều kiện cho phát triển tài nǎng, phẩm chất của cán bộ và của mọi bộ phận hợp thành tổ chức. Tổ chức cũng như con người chỉ có sức mạnh khi có sự phát triển hoà hợp trong thể hữu cơ.

4. Dựa vào sức mạnh làm chủ của nhân dân, thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng để thực hiện mọi nhiệm vụ

Tổ chức thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng nhất thiết phải dựa vào các phong trào cách mạng của quần chúng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là kết quả của những cao trào cách mạng nối tiếp nhau. Sở dĩ Đảng có thể phát động được những cao trào cách mạng đó vì dựa trên cơ sở cương lĩnh, đường lối chiến lược đúng đắn, Đảng đã đề ra được mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể sát hợp xác định đúng động lực và lực lượng cách mạng vạch ra được phương pháp, hình thức đấu tranh phù hợp; đề ra được khẩu hiệu hành động kịp thời, chính xác, kết hợp chặt chẽ khẩu hiệu hành động với khẩu hiệu tuyên truyền; kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức, v.v.. Vì thế mà động viên được mọi tầng lớp nhân dân hǎng hái tham gia phong trào cách mạng.

Trong lãnh đạo tổ chức thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta sớm nhận rõ động lực mới là sức mạnh làm chủ của nhân dân lao động. Song thực tế những nǎm đầu cả nước chuyển vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm, không những hạn chế mà còn triệt tiêu một phần tính tích cực cách mạng của nhân dân lao động.

Thực tiễn đã chỉ rõ: xây dựng tinh thần làm chủ, phát động các phong trào quần chúng tiến hành những nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó khǎn. ở đây, không thể chỉ bằng những kinh nghiệm của cách mạng dân tộc dân chủ, mà phải tìm tòi sáng tạo mới. Những kinh nghiệm bước đầu của thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa như sau:

- Xác định mục tiêu cụ thể, sát đúng cho mỗi phong trào. Mục tiêu đó phải phản ánh đúng lợi ích của quần chúng; mặt khác phải bảo đảm tính hiện thực với những điều kiện, biện pháp sát thực.

- Nắm vững động lực thúc đẩy phong trào, trước hết phải kết hợp đúng đắn ba loại lợi ích: cá nhân, tập thể, xã hội, trong đó lợi ích cá nhân có ý nghĩa trực tiếp, kết hợp động lực vật chất với động lực tinh thần.

- Phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp đúng. Chủ trương, chính sách, biện pháp hướng vào việc động viên mọi nǎng lực lao động sáng tạo, khai thác mọi tiềm nǎng, thực hiện mục tiêu đã định.

- Chú trọng vai trò của tổ chức cơ sở, nhất là các đơn vị cơ sở trực tiếp sản xuất kinh doanh. Đề cao tính tích cực, chủ động, tháo gỡ mọi sự ràng buộc, tạo điều kiện cho các đơn vị cơ sở vươn lên hoàn thành nhiệm vụ vì lợi ích của mình, và lợi ích chung của xã hội.

Tóm lại, phải thực hiện đồng bộ hàng loạt giải pháp mới có những phong trào cách mạng của quần chúng trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề quyết định sự thành công của cách mạng.

Trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên là nắm vững học thuyết Mác - Lênin, xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta, tổng kết kinh nghiệm và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm đó trong thực tiễn, nhằm giữ vững, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là nhân tố cơ bản bảo đảm cho đất nước, dân tộc ta tiến từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.



Nguồn: Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Các tin khác
Xem tin theo ngày