TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 10.009.085
Truy câp hiện tại 619
Giữ vững chính quyền cách mạng trong những năm 1945 - 1946
Ngày cập nhật 21/01/2010

I- TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC SAU THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Cuộc Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, "dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 nǎm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà"

Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng.

Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại, nhân dân ta và chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khǎn, thử thách nặng nề.

Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc, phản động quốc tế đã cấu kết, báo vây, chống phá hòng thủ tiêu mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta, đặt lại ách thống tri của chúng, xoá bỏ nền độc lập mà dân tộc ta vừa giành được.

Gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) - Đồng minh của đế quốc Mỹ, kéo vào miền Bắc.

Dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng âm mưu của Quốc dân đảng Trung Hoa là: "Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng".

Cuối tháng 8 đâu tháng 9 nǎm 1945, quân đội Tưởng do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy đã đóng quân tại Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. Ngày 11-9-1945, tướng Lư Hán tuyên bố thời gian quân Tưởng ở Việt Nam là không hạn định, tự cho mình quyền kiểm soát trật tự, an ninh trong thành phố. Tiêu Vǎn, nhân vật được chính quyền Tưởng giao trách nhiệm xếp đặt chế độ chính trị ở Việt Nam, mà thực chất là thực hiện âm mưu lật đổ đã sớm có mặt ở Hà Nội.

ở phía Nam vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật, Nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương.

Anh và Pháp cấu kết đàn áp cách mạng Đông Dương vì "sợ rằng phong trào ấy "làm gương" cho các thuộc địa của Anh".

Mặt khác, cũng để ngǎn chặn âm mưu của Mỹ muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và Đông - Nam châu á.

Ngày 6-9-1945, quân đội Anh vào Sài Gòn, Gờ-ra-xây - tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam Đông Dương - đòi giai giáp quân đội Việt Nam. Ngày 12-9-1945, quân Anh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng của Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn. Chúng tự ý duy trì trật tự trong thành phố, giao cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát, thả 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và trang bị cho lực lượng này, đồng thời trắng trợn đòi lực lượng vũ trang Việt Nam nộp vũ khí. Ngày 23-9-1945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đâu cuộc xâm lược tân thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương.

Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hung bạo và xảo quyệt như vậy. Các thế lực xâm lược tuy có những ý đồ riêng và hành động cụ thể khác nhau. Song, mục tiêu chung của chúng là tiêu diệt chính quyền nhà nước Việt Nam non trẻ. Gần 30 vạn quân đội của các thế lực đế quốc, thực dân, phản động nước ngoài chiếm đóng trên đất nước ta, cách mạng nước ta không chỉ "bị hǎm trong vòng vây của đế quốc chủ nghĩa" mà còn bị phản kích quyết liệt.

Sự chống phá cách mạng của các thế lực phản động ở trong nước cũng là một thách thức lớn Khi vàn nước ta, quân Tưởng kéo theo lực lượng phản động người Việt lưu vong ở Trung Quốc tập hợp trong tổ chức Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc) của Vu Hồng Khanh và Việt Nam cách mạng đông chí hội (Việt Cách) của Nguyễn Hai Thần. Được quân Tưởng khuyến khích, hỗ trợ, các lực lượng phản động này củng cố chỗ đứng và ngày càng tǎng cường chống phá chính quyền cách mạng và chiếm giữ một số địa phương. Tại Hà Nội, dựa vào thế quân Tưởng, bọn Việt Quốc, việt Cách công khai hoạt động tuyên truyền, gây rối chống phá cách mạng, đồng thời ra sức lừa bịp, lôi kéo quần chúng dưới cái vỏ "cách mạng" và "quốc gia, dân tộc" giả hiệu. Ngoài ra còn nhiều tổ chức phản cách mạng khác hoạt động như Đại Việt quốc dân đảng, Đại Việt quốc gia xã hội đảng v.v. đã bị chính quyền cách mạng ra sắc lệnh giải tán nhưng vẫn tìm mọi cách hoạt động phá hoại... Chưa thời kỳ nào cách mạng nước ta phải đối đấu với nhiều thế lực, nhiều đảng phái phản động như trong những nǎm 1945-1946.

Giặc ngoài, thù trong cấu kết chặt chẽ với nhau hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ, trong khi các nước bạn bè chưa có điều kiện trực tiếp giúp đỡ cách mạng Việt Nam.

Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt qua những khó khǎn lớn về kinh tế, đời sống xã hội. Nên kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp và phátxít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nên lại càng nghèo hơn. Nǎng suất lúa rất thất ( 12 tạ/ha). Nông dân lao động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. 50% ruộng đất bỏ hoang.

Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn, hàng hoá khan hiếm. Tài chính quốc gia gần như trống rỗng. Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720 đồng, trong đó có 586.000 đồng tiền rách.

Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không biết chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc.

Suất thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trǎm người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khǎn, lúng túng.

Những khó khǎn, thử thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội trên đây, đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh đất nước ta trong thế "ngàn cân treo sợi tóc". Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.

II- TĂNG CƯỜNG THỰC LỰC CÁCH MẠNG TRÊN CƠ SỞ PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA TOÀN DÂN ĐỂ GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN

Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và hiện trạng đất nước, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc". Bản chỉ thị xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng lúc này "vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Vì trên thực tế, cuộc cách mạng đó vẫn đang tiếp diễn, nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Chính quyền cách mạng cùng toàn dân phải "kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy Khẩu hiệu của cách mạng vẫn là "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Xem xét âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam và Đông Dương cũng như những hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Bộ cho thấy, việc Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược trên đây là đúng đắn.

Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" còn nêu rõ những nhiệm vụ cấp bách trước mắt là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân". Trong hoàn cảnh có nhiều khó khǎn, thử thách nặng nề và hoàn toàn dựa vào sức mình, Đảng ta ý thức rõ là phải khẩn trương tǎng cường thực lực cách mạng về mọi mặt mới có khả nǎng tự bảo vệ có hiệu quả.

Trước hết, Đảng nhấn mạnh việc củng cố sức mạnh về chính trị, tinh thần của chế độ mới. Chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, do vậy củng cố chính quyền cách mạng là nhiệm vụ hàng đầu. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, lập chính phủ chính thức, chấn chỉnh các cơ quan chính phủ, soạn thảo Hiến pháp để khẳng định trên thực tế và về mặt pháp lý, một chính quyền thật sự do nhân dân xây dựng nên, một chính quyền của dân và vì dân. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ngày 6-1-1964 biểu thị ý chí và sức mạnh của toàn dân xây dựng và bản vệ chính quyền.

ở các địa phương nhân dân cũng bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp và các hội đồng đó cử ra các uỷ ban nhân dân chính thức thay cho các uỷ ban nhân dân lâm thời thành lập trong những ngày tổng khởi nghĩa. Việc kiện toàn chính quyền cách mạng từ trung ương tới cơ sở có ý nghĩa to lớn cả về đối nội và đối ngoại và là bước tiến quan trọng nhằm tǎng cường sức mạnh về chính trị. Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, khẳng định tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt.

Như vậy, trong một thời gian ngắn, chính quyền nhân dân do Đảng lãnh đạo đã xây dựng được Hiến pháp, có Quốc hội, Chính phủ, có các cơ quan dân cử và cơ quan hành chính các cấp được xây dựng và từng bước củng cố, kiện toàn. Quyền lực và sức mạnh của chính quyền được phát huy trong đấu tranh chống xâm lược, trấn áp bọn phản động và tổ chức, động viên sức mạnh về mọi mặt của nhân dân trong việc giữ gìn thành quả cách mạng.

Để tǎng cường sức mạnh về chính trị, cùng với việc củng cố chính quyền, Đảng chủ trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở phát triển các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, tổ chức thêm những đoàn thể cứu quốc mới.

Thu hút vào Mặt trận những tầng lớp tư sản, địa chủ yêu nước và tiến bộ. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh Mặt trận Việt Minh, một mặt trận mới là Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt được thành lập tháng 5-1946 nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng và cá nhân chưa có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh trước đây cùng phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường. Khối đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt là cơ sở chính trị, xã hội rộng lớn bảo đảm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, của chế độ mới trước những khó khǎn thử thách nặng nề.

Sức mạnh chính trị được biểu hiện tập trung ở việc giữ vững và tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ở việc giữ nghiêm kỷ luật của Đảng và tǎng cường số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Trong tình hình chính trị có nhiều phức tạp, trước âm mưu chia rẽ, chống phá của giặc ngoài, thù trong, để bảo toàn lực lượng và có lợi cho sách lược đấu tranh, Đảng tạm thời rút vào hoạt động bí mật (ngày 11-11-1945): Nhưng Đảng vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng, xem đó chỉ là một giải pháp cần thiết, bắt buộc trước tình thế hiểm nghèo của cách mạng, Đảng phải "lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn"

Trước hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Bộ, Đảng chủ trương nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang, tǎng cường sức manh quân sự, động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến. Ngày 23-9-1945, quân dân Sài Gòn và cả Nam Bộ đã mở đầu cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống thực dân Pháp. ở miền Nam, Đảng phát động toàn dân triệt để tổng đình công, bãi công, bãi chợ, không hợp tác với địch, làm đúng lời thề trong lễ tuyên bố độc lập, đông thời tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp, kìm chân và tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch. ở miền Bắc và miền Trung, Đảng phát động phong trào "Nam tiến" chi viện người và của cho cuộc chiến đấu ở miền Nam. Chính cuộc đấu tranh vũ trang anh dũng dựa trên sức mạnh của quân dân cả nước đã gây cho địch nhiều khó khǎn, làm thất bại kế hoạch đánh nhánh thắng nhanh của chúng, buộc thực dân Pháp phải đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Lực lượng vũ trang cách mạng đến nǎm 1946 đã lên tới 8 vạn người. Đó là một trong những lực lượng nòng cốt bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngay từ đâu, Đảng và chính quyền cách mạng đã rất chǎm lo xây dựng, củng cố công an nhân dân, coi đó là công cụ trọng yếu bảo vệ thành quả cách mạng. Sự ra đời của công an nhân dân ngày 19-8-1945 và cuộc đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực phản cách mạng đã thể hiện tinh thần đó.

Chính quyền cách mạng đã nhanh chóng xoá bỏ bộ máy cai trị của chính quyền cũ như Sở liêm phóng, hiến binh, giải tán các đảng phái phản động. Ngày 5-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh giải tán "Đại Việt quốc gia xã hội đảng", "Đại Việt quốc dân đảng", ngày 13-9-1945, Chính phủ ra tiếp sắc lệnh quản thúc an trí những người nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hoà.

Đảng và chính quyền cách mạng kiên quyết trừng trị bọn phản quốc lợi dụng khó khǎn của cách mạng và dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng. Các âm mưu lật đổ của địch đều bị thất bại. Việc khám phá và đưa ra xét xử vụ bắt cóc, cướp của, giết người của bọn phản động ở phố ôn Như Hầu tháng 7-1946 đã làm thất bại kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng, làm tan rã hàng ngũ bọn phản động, đồng thời biểu lộ sức mạnh và uy tín của chính quyền nhân dân.

Trong điều kiện nền kinh tế, tài chính kiệt quệ, nạn đói vẫn tiếp diễn, Đảng nhận thức rõ chính quyền muốn đứng vững phải nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi nạn đói và những khó khǎn về kinh tế. Trước đó bọn thống trị Pháp cố tình gây ra nạn đói "để ngǎn trở phong trào yêu nước và bắt buộc đông bào chúng ta phải làm việc như nô lệ". Chính quyền cách mạng với những chính sách và biện pháp có hiệu quả sớm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

Bên cạnh những biện pháp cơ bản để phát triển kinh tế như khôi phục các nhà máy, hầm mỏ, cho tư nhân góp vốn kinh doanh, khuyến khích giới công thương mở hợp tác xã, lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc, sửa chữa đê điều, định lại các ngạch thuế v.v.., Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển sản xuất nông nghiệp với khẩu hiệu "không một tấc đất bỏ hoang". Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch tǎng gia sản xuất và tiết kiệm để cứu đói, động viên sự đóng góp to lớn của nhân dân. Hàng loạt chính sách, biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiết kiệm, khắc phục khó khǎn về kinh tế tài chính, ổn định đời sống, được nhân dân tích cực hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, nạn đói bị đẩy lùi, sản xuất nông nghiệp khôi phục nhanh và phát triển. Theo thống kê của Bộ canh nông, chỉ riêng ở Bắc Bộ, sản lượng lương thực cả nǎm 1946 đạt 1.925.000 tấn, xấp xỉ bằng vụ mùa của cả nước nǎm 1940. Thắng lợi đó không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nhân dân thêm tin tưởng, gắn bó và hết lòng ủng hộ chính quyền cách mạng, đóng góp công sức xây dựng đất nước và chế độ mới.

Để giải quyết khó khǎn của nền tài chính quốc gia. Chính phủ đã động viên toàn dân đóng góp tiền của và hưởng ứng "Tuần lễ vàng" xây dựng "Quỹ độc lập". Các tầng lớp nhân dân trên cả nước trong "Tuần lễ vàng", (từ ngày 17 đến 24-9-1945) đã đóng góp được 370 kg vàng, và hơn 60 triệu đồng cho"Quỹ độc lập" và "Quỹ đảm phụ quốc phòng". Nhiều nhà công thương ở Hà Nội ủng hộ Chính phủ hàng trǎm lạng vàng và hàng triệu đồng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" Vì vậy, cùng với chống giặc đói và giặc ngoại xâm phải chống giặc dốt: Chiến dịch diệt giặc dốt được thực hiện rộng rãi khắp cả nước. Chỉ trong một nǎm, đã có 2,5 triệu người biết chữ. Việc xoá bỏ phong tục cổ hủ và tệ nạn xã hội của chế độ cũ và từng bước xây dựng đời sống vǎn hoá mới đã mang lại hiệu quả tích cực, tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần của chế độ xã hội mới.

Thành công lớn của Đảng trong thời kỳ này là tǎng cường thực lực cách mạng về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, vǎn hoá tư tưởng, đồng thời phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân với tư cách người chủ đất nước để xây dựng và bảo vệ chế độ mới và nền độc lập dân tộc. Sức mạnh của chính quyền và chế độ mới thật sự bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân.

Phát huy được sức mạnh của toàn dân là do Đảng giải quyết thành công một số vấn đề cơ bản và thiết yếu sau đây:

Một là, Đảng ý thức sâu sắc rằng, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Trong đường lối, chủ trương, chính sách cũng như trong hoạt động thực tiễn, Đảng đã bằng mọi cách làm cho nhân dân hiểu rõ điều đó, làm cho nhân dân thấy được việc củng cố, bản vệ chính quyền và thành quả cách mạng là quyền lợi và trách nhiệm, là ý chí và tình cảm của mọi người để họ thực hiện nhiệm vụ cách mạng một cách tự giác. Nếu không có sự ủng hộ hết lòng và tự giác của nhân dân thì chính quyền không thể đứng vững. Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ khi có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. "Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ; thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối".

Có được sự thống nhất giữa Đảng, chính quyền cách mạng và nhân dân thành một khối vững vàng là do Đảng và chính quyền đã có đường lối, chính sách đúng, quan tâm đến những vấn đề dân sinh, dân chủ, dân trí, vì cuộc sống và lợi ích thiết thực của nhân dân; biết tổ chức, động viên quần chúng và điều cực kỳ quan trọng là ở sự gương mẫu, hy sinh của cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục và rèn luyện đã thu phục được lòng dân bằng tâm đức của mình. Nhờ vậy, mọi việc đều trở nên tốt đẹp, mọi khó khǎn đều nhanh chóng vượt qua.

Hai là, Đảng và chính quyền cách mạng nêu cao lý tưởng cách mạng mà mục tiêu trước hết là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc với tinh thần "Độc lập trên hết", "Tổ quốc trên hết". Mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân được kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn trong đường lối, chính sách của Đảng và chính quyền. Thực tế lịch sử cho thấy, trong hoàn cảnh đất nước có muôn vàn khó khǎn, chính quyền mới chưa có thời gian và điều kiện thực hiện được nhiều việc thiết yếu của đời sống nhân dân, nhưng nhờ nêu cao và quyết tâm đấu tranh cho độc lập tự do và thống nhất đất nước là lợi ích chung lớn nhất lúc này mà toàn dân hǎng hái tham gia nhiệm vụ cách mạng và ủng hộ chính quyền.

Nét nổi bật là Đảng và chính quyền cách mạng không chỉ khơi dậy được sức mạnh vật chất, tinh thần của công nhân, nông dân, dân nghèo, mà còn lôi cuốn đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác, các nhân sĩ trí thức, các nhà tư sản, thương gia, địa chủ, thậm chí cả các quan lại của chế độ cũ tham gia chính quyền và góp tiền của, công sức, trí tuệ vào việc giải quyết nhưng khó khǎn của đất nước, của cách mạng. Điều mà một học giả nước ngoài gọi là "sự thần bí" là đã liên kết tất thẩy mọi tầng lớp, mọi con người Việt Nam, tạo nên sức mạnh cho cách mạng chính là độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Lý tưởng và lẽ sống của những người cộng sản là cùng với toàn dân giành lấy chính quyền để làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ǎn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chính vì lý tưởng ấy mà toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập, giữ vững thành quả cách mạng.

Ba là, sức mạnh của toàn dân được phát huy còn nhờ công tác tổ chức công phu, tỉ mỉ, thích hợp và có hiệu quả cao của Đảng và chính quyền cách mạng. Với các hình thức tổ chức và hoạt động thiết thực của các tổ chức quần chúng, các đoàn thể yêu nước và cách mạng nên đã tập hợp hết thảy mọi người vào việc thực hiện những nhiệm vụ do Đảng và chính quyền cách mạng đề ra. Cao trào cách mạng của quần chúng thể hiện trong việc thực hiện các nhiệm vụ diệt giặc dốt, diệt giặc đói và diệt giặc ngoại xâm, xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới. Trong các cuộc biểu dương lực lượng, quần chúng cách mạng đã tỏ rõ quyết tâm bảo vệ nền độc lập và ủng hộ Chính phủ. Điều đó thể hiện rõ nét tính khoa học và nghệ thuật tổ chức của Đảng.

Cách mạng nước ta vận động và phát triển trong sự bao vậy của chủ nghĩa đế quốc, bạn bè quốc tế chưa có điều kiện trực tiếp giúp đỡ nếu không có thực lực vững mạnh thì rất dễ bị kẻ thù tiêu diệt. Sức mạnh tự thân đó đã làm cho cách mạng phát triển vững chắc. Sức mạnh đó càng được phát huy mạnh mẽ nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó thể hiện rõ nhất trong những chủ trương, sách lược khôn khéo đối với các loại kẻ thù.

III- TRIỆT ĐỂ LỢI DỤNG MÂU THUẪN, PHÂN HÓA HÀNG NGŨ KẺ THÙ VÀ NHÂN NHƯỢNG CÓ NGUYÊN TẮC

1- Tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam (9-1945 đến 3-1946)


Để giữ vững được chính quyền trong hoàn cảnh bị nhiều kẻ thù bao vây và chống phá, đòi hỏi Đảng phải phân tích, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn, thể và lực của từng kẻ thù, để có đối sách thích hợp, khơi sâu và lợi dụng mâu thuẫn giữa chúng, làm thất bại từng âm mưu, thủ đoạn của chúng.

Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" của Trung ương Đảng đã chỉ rõ: thực dân Pháp là kẻ thù nguy hiểm hơn, là kẻ thù chính, cần phải tập trung mũi nhọn vào chúng. Xác đinh thực dân Pháp là kẻ thù chính, bởi vì chúng đã và đang trắng trợn vũ trang xâm lược nước ta ở Nam Bộ. Thực dân Pháp rắp tâm đặt lại ách thống trị của chúng ở Đông Dương. Âm mưu đó được thể hiện trong Tuyên ngôn của chính phủ Đờ Gôn ngày 24-3-1945. Nhận rõ âm mưu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta cho rằng, các thế lực đế quốc sẽ đi đến dàn xếp với nhau để cho thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Trước sau chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng "sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng". Như vậy, việc tập trung chống thực dân Pháp lúc này là hoàn toàn đúng. Để tập trung đối phó với thực dân Pháp, cần phải hoà hoãn, nhân nhượng với Tưởng. Bởi lẽ chúng chưa thể trắng trợn gây chiến tranh xâm lược nước ta được. Như vậy, tranh được tình thế khó khǎn bất lợi là phải đối đầu với cả quân Pháp và quân Tưởng cùng một lúc.

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ quân Tưởng vào nước ta với ý đô lật đổ Chính phủ ta, lập nên chính quyền tay sai của chúng nhưng lại dưới danh nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ tước vũ khí quân Nhật, nên Đảng ta đề ra chính sách "Hoa - Việt thân thiện", có những nhân nhượng nhất định, chính là chủ động ngǎn chặn và làm thất bại âm mưu lật đổ của chúng, tỏ rõ thiện chí của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ quân Đồng minh trong việc giải giáp quân Nhật, không để họ kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta. Đây là sự nhìn nhận và xử trí cực kỳ tinh tế sáng suốt, tránh được sự đối đầu có thể dẫn tới đổ vỡ.

Khi quyết đính sách lược hoà hoãn với Tưởng, Đảng ta cũng nhận rõ những mâu thuẫn, khó khǎn trong nội bộ quân Tưởng. Chính quyền Tưởng tuy có Mỹ giúp sức, song đang phải đối phó với sự phát triển của cách mạng Trung Quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo và nước Trung Hoa đang đứng trước một cuộc nội chiến mới. Chính quyền Tưởng tuy tham vọng thì lớn, nhưng thực lực có hạn, đội quân Tưởng kéo sang Việt Nam tuy đông nhưng ô hợp, tổ chức kém và hậu cần khó khǎn, nên chúng không thể muốn gì là làm được, không thể không trông mong vào những khả nǎng hậu cần tại chỗ. Do đó, chúng không thể không giao thiệp và dựa vào chính quyền của ta đã được xác lập, để có thể giải quyết những nhu cầu cấp thiết.

Sức mạnh của cách mạng nước ta, là đã không chỉ tự lực giành chính quyền, mà còn đang tự bảo vệ có hiệu quả thành quả cách mạng của mình, đã làm cho chính quyền Tưởng cũng phải từng bước điều chỉnh chính sách của họ. Cuộc biểu dương lực lượng của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội trong buổi đón Hà Ưng Khâm, tổng tư lệnh quân đội Tưởng và phái bộ Đồng minh đến Hà Nội ngày 2-10-1945 là biểu thị ý chí và sức mạnh của nhân dân Việt Nam đoàn kết xung quanh Chính phủ Hồ Chí Minh. "Tàu Tưởng trước kia định kéo quân sang ta âm mưu lật đổ chính quyền do Việt Minh tổ chức ra để đặt một chính phủ bù nhìn lên thay. Nhưng sang ta, họ thấy toàn dân đoàn kết ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, nên họ đành phải giao thiệp với Chính phủ ấy".

Từ sự phân tích khách quan chỗ mạnh, chỗ yếu của từng kẻ thù, tin vào sức mạnh của cách mạng, của chính nghĩa, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự nhân nhượng với quân Tưởng trên một số mặt. Về kinh tế, Chính phủ Việt Nam nhận cho quân Tưởng tiêu tiền "quan kim" mặc dù điều đó làm cho tài chính và thương mại của ta càng thêm nguy ngập .

Chính phủ và nhân dân ta nhận cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước chưa ra khỏi nạn đói. Về quân sự, Đảng chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để không rơi vào âm mưu và hành động khiêu khích lật đổ của chúng. Về chính trị, Đảng chủ trương mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của Tưởng) tham gia Chính phủ. Quốc hội khoá I, kỳ họp đầu tiên ngày 2-3-1946 thông qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc hội cho bọn Việt Quốc, việt Cách và để họ nắm gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính thức.

Trong hoàn cảnh có nhiều đảng phái đối lập công khai dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá chính quyền cách mạng, Đảng ta tuy phải rút vào bí mật, nhưng không thể buông lỏng vai trò lãnh đạo chính quyền. Chấp nhận cho các đảng phái đối lập hoạt động, thậm chí tham gia chính quyền là sự nhân nhượng lớn có tính chất bắt buộc, nhưng đó chỉ là sách lược của ta với chính quyền Tưởng lúc này, còn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng ta là một nguyên tắc chiến lược. Chúng ta biết rõ các đảng phái phản động (Việt Quốc, Việt Cách..., hoàn toàn dựa vào quân Tưởng, nên khi đội quân đó rút đi thì các tổ chức đó cũng không có chỗ đứng trong lòng quốc gia, dân tộc và chiêu bài "yêu nước", "cách mạng" cũng bị chính những hành động phản nước, hại dân của họ lột bỏ. Đối với các đảng phái thân Tưởng, Đảng ta chủ trương phân hoá nội bộ của chúng, kéo lấy những phần tử trung thực còn có tinh thần yêu nước; đồng thời, chỉ cho quần chúng thấy bọn lãnh tụ các tổ chức đó "chẳng qua là một bọn cơ hội đê hèn, vì chúng chỉ biết vâng lệnh nước ngoài và đặt quyền lợi riêng lên trên quyên lợi dân tộc".

Với sách lược khôn khéo trong quan hệ với Tưởng và các thế lực tay sai của chúng, Đảng và nhân dân đã làm thất bại âm mưu và hành động khiêu khích, lật đổ của quân Tưởng. Chủ động đưa ra chính sách Hoa - Việt thân thiện, chẳng những đã gạt bỏ được những âm mưu hành động chống phá của một kẻ thù lớn và xảo quyết, mà còn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng và nhãn quan chính trị sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính sách đó đã vô hiệu hoá sự chống phá của các đảng phái phản động mà ý đồ của chúng không có gì khác là dựa vào quân Tưởng để đoạt lấy chính quyền, thống trị nhân dân ta và làm tay sai cho các thế lực đế quốc và phản động nước ngoài. Sách lược của Đảng ta đối với Tưởng đã góp phần quan trọng ổn định miền Bắc và mọi mặt để tập trung sức chống lại thực dân Pháp xâm chiếm Nam Bộ.

2- Tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp đề đẩy nhanh quân Tưởng về nước

Từ tháng 11-1945, trong chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, Đảng đã phân tích và cho rằng, trước sau chủ nghĩa đế quốc cũng dàn xếp với nhau và chính quyền Tưởng cũng để Đông Dương trở về tay Pháp. Diễn biến lịch sử cho thấy nhận định trên là hoàn toàn đúng. Ngày 28-2-1946, Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp, thoả thuận để quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng "canh giữ tù binh Nhật" và "giữ trật tự theo "hiệp ước quốc tế".

"Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu Tưởng và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy" Thực chất đây là sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế quốc, phản động, một sự áp đặt như "việc đã rồi", bất kể Chính phủ và nhân dân Việt Nam có thừa nhận hay không.

Tình hình phức tạp trên đây đi hỏi Đảng ta phải nhanh chóng quyết định tiếp tục đánh hay tạm thời hoà với Pháp? Chỉ thị "Tình hình và chủ trương" của Trung ương Đảng ngày 3-3-1946 đã chỉ dẫn: vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn đánh, "vấn đề là biết mình biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng".

Chỉ thị phân tích rõ, "lúc chúng ta ngǎn quân Pháp vào Bắc Việt Nam thì chính là lúc bọn phản động Việt Nam sẽ đứng ra lập chính phủ bù nhìn, đi đôi với thực dân Pháp đánh ta, buộc cho ta là phiến loạn, là chống Liên Hiệp Quốc, là phản hoà bình và chính lúc đó quân Tàu trắng sẽ kiếm cớ ở lại Đông Dương cùng thực dân Pháp và bọn phản động Việt Nam đánh ta". Tạm thời hoà với Pháp, cho quân Pháp vào miền Bắc sẽ tránh được tình thế bất lợi cùng một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ thù, bảo toàn được thực lực, có thời gian củng cố chính quyền và thành quả cách mạng, tǎng thêm tiềm lực để đưa cách mạng tiến lên bước phát triển mới,tranh thủ thời gian hoà hoãn với Pháp để sớm gật được quân Tưởng và loại trừ bọn tay sai. Như vậy, sách lược mới của Đảng ta mang ý nghĩa "Hoà để tiến".

Trong những ngày trước và sau khi công bố "Hiệp ước Hoa- Pháp", nhiều quan chức và tướng lĩnh Pháp ở Việt Nam, kể cả Xanh-tơ-ni và Xa-lǎng đêu có các cuộc giao tiếp với Chính phủ ta để dàn xếp cho quân Pháp vào miền Bắc. Trên thực tế "chúng vẫn gờm cách mạng Đông Dương và dư luận quốc tế nên cả Tàu Tưởng lẫn Pháp cũng muốn dàn xếp với ta về việc quân Pháp kéo vào Bắc nước ta".

Chính các đại diện của nước Pháp ở Việt Nam lúc đó cũng phải thừa nhận một thực tế là họ không thể dễ dàng đưa quân vào miền Bắc nếu không đàm phán với Chính phủ ta, "nếu không được sự đồng ý của Cụ Hồ". Đảng ta cũng chỉ rõ những lý do chính thức đẩy thực dân Pháp phải thương lượng với Chính phủ ta: "Một là, cuộc kháng chiến của ta làm cho chúng hao tổn; hai là, phong trào phản chiến nảy nở trong nhân dân và quân đội Pháp; ba là, nhân dân Pháp và Chính phủ Goanh (trong đó cộng sản và xã hội chiếm đa số) không muốn kéo dài cuộc đổ máu ở Đông Dương; bốn là, chính Anh - Mỹ cũng sợ cuộc chiến đấu giành độc lập của Đông Dương và Nam Dương kéo dài thì ảnh hưởng của nó sẽ đẩy mạnh thêm phong trào đòi độc lập ở các thuộc địa khác". Xét về khả nǎng quân sự, lúc này thực dân Pháp cũng chưa đủ sức để tiến hành ngay cuộc chiến tranh xâm lược cả nước ta, chúng cũng cần thời gian hoà hoãn để có thêm viện binh. Mặt khác, thực dân Pháp muốn đàm phán với Chính phủ ta để quân Pháp vào miền Bắc mà không phải đụng độ ngay, sau đó củng cố chỗ đứng, rồi lấn tới và cuối cùng có thể thực hiện "màn đảo chính", để nhanh chóng đặt lại sự thống trị của chúng đối với nước ta.

Từ sự phân tích tình hình một cách khách quan, toàn diện, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định tạm thời hoà hoãn và có nhân nhượng cần thiết để cho quân Pháp vào miền Bắc, nhưng không phải hoàn toàn theo Hiệp ước Hoa - Pháp, mà phải theo những điều kiện đàm phán ký kết giữa ta và Pháp. Sự nhân nhượng của ta là có nguyên tắc.

Trước hết là Pháp phải công nhận quyền tự chủ (chứ không phải tự trị) của nhân dân Việt Nam được ghi trong Điều 1 của Hiệp định sơ bộ ký ngày 8-3-1946 tại Hà Nội giữa đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp và đại diện Chính phủ Việt Nam. Hai bên đã thoả thuận về các điều khoản sau đây:

"1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình, và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp.

Về việc hợp nhất ba kỳ, chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.

2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đón quân đội Pháp khi quân đội ấy chiếu theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân đội Trung Hoa. Một hiệp định phụ khoản đính theo Hiệp định sơ bộ này sẽ định rõ cách thức thi hành công việc thay thế ấy.

3. Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành sau - khi ký hiệp định. Hai chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để gây một bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay cuộc điều đình thân thiện và thành thực".

Ngày 9-3-1946, Trung ương Đảng ra bản chỉ thị Hoà để tiến. Chỉ thị phân tích rõ thắng lợi và ý nghĩa quan trọng của bản Hiệp định sơ bộ, thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng và nhân dân ta. Bản chỉ thị nhắc nhở và đề phòng xu hướng "tả" khuynh, không muốn hoà với Pháp, "không tin chủ trương hoà với Pháp là đúng". Xu hướng này có thể xuất phát từ lòng yêu nước chính đáng, nhưng nông nổi, rất dễ dẫn đến hành động vô nguyên tắc, vô chính phủ và dễ bị bọn phản động khiêu khích. Chỉ thị cũng lưu ý xu hướng hữu khuynh, ngây thơ tưởng rằng Hiệp định Việt - Pháp làm cho dân tộc ta tránh được mọi khó khǎn rồi. Xu hướng này dễ gây mất cảnh giác, không chuẩn bị đối phó với mọi bất trắc, không sẵn sàng chiến đấu, nếu thực dân Pháp tráo trở.

Trong khi hoà hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp, Đảng vẫn chủ trương thực hiện sách lược khôn khéo, mềm dẻo với chính quyền Tưởng. Ngày 18-3-1946, Chính phủ ta cử một phái đoàn sang Trùng Khánh để giữ quan hệ hoà hảo với Chính phủ Quốc dân đảng Trung Hoa.

Lịch sử đã chứng minh rằng, chủ trương hoà với Pháp là một đòn nặng đánh vào âm mưu thâm độc của Tưởng và tay sai "phá cuộc đàm phán giữa ta và Pháp, đẩy ta chống lại Hiệp ước Hoa - Pháp, để cho cả ba lực lượng: Tàu trắng, thực dân Pháp và bọn phản động Việt Nam quay lại tiêu diệt ta".

Chủ trương đó cũng đã lợi dụng được mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp và Tưởng - cả hai thế lực này đều muốn thôn tính và độc chiếm nước ta, ký hiệp định với Pháp để gạt quân Tưởng và kéo theo sự tan rã của bọn phản động tay sai của Tưởng. Điều đặc biệt quan trọng là chủ trương này đã tạo điều kiện để củng cố và tǎng cường lực lượng cách mạng nước ta về mọi mặt. "Gần một nǎm tạm hoà bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng cǎn bản".

Cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả và phát triển thực lực cách mạng của nhân dân ta từ sau Hiệp định sơ bộ diễn ra hết sức phức tạp và gay gắt. Một mặt, ta kiên trì đấu tranh ngoại giao, duy trì khả nǎng hoà hoãn, tỏ rõ lập trường hoà bình, hữu nghị với nước Pháp; đồng thời, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những âm mưu, hành động khiêu khích, xung đột, lấn tới của bọn thực dân Pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thǎm nước Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp từ ngày 31-5-1946. Cuộc đàm phán chính thức ở Pan giữa đoàn đại biểu Chính phủ ta và Chính phủ Pháp bắt đầu từ ngày 6-7-1946, nhưng không đạt được kết quả. Trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp ngày 14-9-1946, thể hiện thiện chí hoà bình trước sau như một của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Mặt khác, để Đảng và Chính phủ ta có thời gian xúc tiến nhanh việc chuẩn bị lực lượng, cảnh giác và sẵn sàng đối phó với sự bội ước của thực dân Pháp và sự phá hoại của bọn việt gian thân Pháp.

Trong chỉ thị Hoà để tiến, Đảng ta đã lưu ý "sau khi đổ bộ và đóng lại các nơi cǎn cứ rồi, rất có thể bọn thực dân Pháp quay ra kiếm chuyện tiến công ta để lật đổ chính quyền nhân dân, cho bọn bù nhìn Việt gian thân Pháp lên thay. Bởi vậy, vẫn phải tiếp tục chuẩn bị những việc kháng chiến lâu dài, nhưng làm kín đáo để tránh mọi sự hiểu nhầm giữa ta và Pháp".

Việc thực dân Pháp đem quân chiếm đóng trái phép Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội ngày 25-6-1946, âm mưu làm đảo chính lật đổ Chính phủ ta vào ngày 14-7-1946 và lập ra "Chính phủ Nam Kỳ tự trị" v.v. ngày càng lộ rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên phạm vi cả nước ta là không tránh khỏi. Vừa nhân nhượng vừa cảnh giác và kiên quyết đấu tranh khi không thể nhân nhượng được nữa thì nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm tiến hành kháng chiến để giành độc lập, thống nhất hoàn toàn.

Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), một trong những thành công nổi bật của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng là đã triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Lúc thì hoà hoãn nhân nhượng với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt và là một mẫu mực tuyệt vời của sách lược lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc

Thành công của sự vận dụng sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù thời kỳ này bắt nguồn từ nhiều điều kiện:

Một là, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị đã phân tích, đánh giá đúng âm mưu, hành động, thế và lực của từng kẻ thù để kịp thời có đối sách thích hợp. Không có sự nhạy cảm đặc biệt như một "linh khiếu chính trị" thì không thể chỉ rõ thực dân Pháp là kẻ thù chính trong khi gần 20 vạn quân Tưởng đã kéo vào miền Bắc. Cũng chính nhờ sự nhạy cảm đặc biệt đó mà chỉ trong vòng mấy ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3 nǎm 1946, Đảng đã nhanh chóng chuyển từ hoà với Tưởng để đánh Pháp sang hoà với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước.

Hai là, thực hiện hoà hoãn, nhân nhượng với kẻ thù nào, Đảng ta cũng luôn luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, tránh được những sai phạm "tả" hoặc hữu khuynh. Nguyên tắc đó là giữ vững chủ quyền và mục tiêu độc lập thống nhất đất nước, giữ vững chính quyền và thành quả cách mạng. Nguyên tắc hoà với Pháp là giữ vững quyền tự chủ. Giữ vững nguyên tắc nhưng không cứng nhắc mà có sự mềm dẻo về sách lược và linh hoạt về hình thức đấu tranh, luôn luôn nêu cao chính nghĩa và tỏ ra thiện chí của ta.

Ba là, phải có thực lực cách mạng, nghĩa là phải có sức mạnh cần thiết. Cách mạng không đủ mạnh thì kẻ thù không bao giờ chịu lùi bước. ở đây sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân là một trong những nhân tố cơ bản. Dựa trên sức mạnh của quần chúng nhân dân để chủ động tiến công, phân hoá hàng ngũ địch. Trên thực tế "muốn ngoại giao thắng lợi, phải biểu dương thực lực".

Bốn là, không thể có thành công về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù nếu không tỉnh táo, sáng suốt về chính trị, hoặc mất cảnh giác, ảo tưởng vào sự thành thật của kẻ thù. Khi hoà hoãn và nhân nhượng phải dự kiến những diễn biến xấu nhất để chủ động đối phó. Bất kể trong tình hình nào cũng phải chủ động. Sự chủ động dựa trên sự phân tích đúng đắn những vấn đề phát sinh phức tạp, lòng tin vững chắc và quyết tâm cách mạng rất cao của đội tiên phong lãnh đạo là Đảng ta, kết hợp với nhiệt tình cách mạng của nhân dân ta.


Giữ vững chính quyền nhân dân ở nước ta trong những nǎm 1945-1946 làm nổi bật kinh nghiệm về cách mạng biết tự bảo vệ trong bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khǎn, phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng một lúc nhân dân ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ lớn: kháng chiến chống xâm lược giữ vững nền độc lập; trấn áp các thế lực phản động, xây dựng và củng cố chính quyền, xây dựng chế độ mới; phát triển kinh tế, vǎn hoá để từng bước ổn định đời sống nhân dân v.v.. Những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó đã khơi dậy sức mạnh to lớn của cả dân tộc, do đó chẳng những đã bảo vệ được chính quyền, mà còn đưa cách mạng tiếp tục phát triển vững chắc và giành thế chủ động ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Nguồn: Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Các tin khác
Xem tin theo ngày