Kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10,2%/năm; năm 2013, đạt 7,89%, cao hơn mức bình quân chung cả nước. GDP bình quân đầu người năm 2013 đạt 1.700 USD, tăng hơn 1,62 lần so với năm 2009. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ, du lịch - công nghiệp - nông nghiệp. Trong đó, khu vực du lịch - dịch vụ 53,8%; công nghiệp 35,6%; nông nghiệp còn 10,6% trong GDP.
Thu ngân sách nhà nước bình quân đạt gần 5.000 tỷ đồng/năm. Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 38,8%/năm; năm 2013 đạt trên 540 triệu USD, tăng 14,1% so năm 2012, gấp 3,7 lần so năm 2009.
Hoàn thành Chương trình xóa nhà tạm, chương trình tái định cư dân thủy diện trên sông Hương và vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với hơn 2000 hộ dân. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,5%.
Hệ thống đô thị được đầu tư phát triển, công tác chỉnh trang đô thị được tăng cường
Trong 5 năm từ 2009 đến 2013, vốn đầu tư trên địa bàn đạt gần 54.000 tỷ đồng, năm 2013 đạt trên 13.700 tỷ đồng (gấp 2 lần so với năm 2009). Đã thành lập thị xã Hương Thủy, thị xã Hương Trà, thị trấn Phú Đa theo các nghị quyết của Chính phủ. Hiện nay, toàn tỉnh có 01 đô thị loại I, 03 đô thị loại IV, 07 đô thị loại V; tỷ lệ đô thị hóa đạt 52,7%.
Hệ thống đô thị được đầu tư phát triển, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh; công tác chỉnh trang đô thị tạo được dấu ấn rõ nét; quy mô đô thị được mở rộng. Các trung tâm tiểu vùng Thanh Hà, An Lỗ, Phong An, La Sơn, Vinh Thanh... đang được đầu tư đạt chuẩn đô thị loại V.
Đặc biệt thành phố Huế được tập trung nguồn lực để đầu tư cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang hệ thống giao thông nội thị, vỉa hè, thoát nước, điện chiếu sáng, cây xanh... trong các phường nội thành; xúc tiến di dời, giải tỏa, tái định cư các hộ dân sống trong vùng bảo vệ di tích; chỉnh trang, nạo vét một số sông chính (Ngự Hà, Đông Ba, An Cựu, hồ Học Hải...). Hoàn thành xây mới cầu Dã Viên, nâng cấp hệ thống cầu qua sông An Cựu, sông Đông Ba…; hoàn thành chỉnh trang một số đường trục chính trong thành phố Huế và một số tuyến đường đến các điểm di tích, làng đại học...; hoàn thành tái định cư 969 hộ dân vạn đò trên sông Hương. Tiếp tục đầu tư một số trục giao thông chính trong khu đô thị An Vân Dương.
Công tác xây dựng và chỉnh trang thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn Phú Đa, Thuận An, thị trấn Sịa và các đô thị khác được đẩy nhanh. Nhiều công trình kiến trúc, công cộng được ưu tiên đầu tư; hạ tầng giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước, nâng cấp hè phố, điện chiếu sáng... được đầu tư xây dựng bảo đảm phát triển chức năng đô thị.
Kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư
Hệ thống giao thông đối ngoại được cải thiện đáng kể; hoàn thành nâng cấp đường cất hạ cánh cảng Hàng không Quốc tế Phú Bài, khởi công nâng cấp Quốc lộ 1A đoạn qua Thừa Thiên Huế và hai hầm đường bộ Phước Tượng và Phú Gia. Hệ thống giao thông kết nối các đô thị được tập trung đầu tư, hình thành trục kết nối Huế - Tứ Hạ - Bình Điền (đường Tỉnh lộ 16, 12B), đường Nguyễn Chí Thanh (Huế - Hương Trà - Quảng Điền) kết nối đô thị ven biển phía Bắc với thành phố Huế... Hoàn thành trục giao thông Thuỷ Dương - Thuận An kết nối đô thị Thuận An với thành phố Huế và thị xã Hương Thủy. Hoàn thành đường La Sơn - Nam Đông giai đoạn 1. Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư kiên cố hóa, hoàn thành một số tuyến giao thông quan trọng phá thế chia cắt ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai như: xây mới Cầu Tam Giang, nâng cấp các tuyến tỉnh lộ kết nối trung tâm tiểu vùng, xây mới hệ thống đường tránh lũ giải quyết cơ bản tình trạng chia cắt cục bộ trong mùa mưa lũ.
Hệ thống cấp nước sinh hoạt trong đô thị Huế và vùng phụ cận được nâng cấp, cải tạo; xây mới hệ thống cấp nước thị trấn Phú Lộc và các xã lân cận, hoàn thành lắp đặt các tuyến cấp nước tập trung vượt phá Tam Giang để cung cấp nước cho nhân dân các xã ven biển; nâng tỷ lệ dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh trên toàn tỉnh lên 92%; trong đó, tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt 74%. Tiếp tục triển khai dự án cấp nước toàn tỉnh (vốn vay ADB).
Hệ thống điện lưới quốc gia đã phủ 100% xã, thôn, bản; nâng cấp hệ thống điện tỷ lệ hộ sử dụng điện là 99,5%. Tỷ lệ đường phố chính đô thị đã được chiếu sáng đạt 95,4% (tăng 15%); tỷ lệ ngõ hẻm được chiếu sáng đạt 20,4% (tăng 6%). Tiếp tục triển khai nâng cấp hệ thống cấp điện vùng nông thôn, miền núi, đảm bảo an toàn cấp điện.
Nhờ liên tục tập trung nguồn lực triển khai Chương trình trọng điểm chỉnh trang đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị và nông thôn đồng bộ, quyết liệt cả phần thể chế hóa và đầu tư nên bộ mặt các đô thị, nhất là đô thị Huế đã được cải thiện đáng kể. Các tiêu chí của đô thị loại I trực thuộc Trung ương đã cơ bản hoàn thành. Theo đánh giá của Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn Quốc gia thuộc Bộ Xây dựng đánh giá các tiêu chí phân loại đô thị thì khu vực thành phố Huế và vùng phụ cận, đạt 78,84/100 điểm tối đa, vượt 8,84 điểm so với điểm chuẩn tối thiểu của đô thị loại I.
Xây dựng Thừa Thiên Huế xứng tầm là trung tâm văn hoá, du lịch đặc sắc của cả nước
Tỉnh đã tập trung chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho công tác bảo tồn, tôn tạo phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể gắn với quy hoạch đô thị. Trọng tâm là bảo tồn, tôn tạo Quần thể di tích Cố đô Huế - di sản văn hoá được UNESCO công nhận đầu tiên của Việt Nam. Đầu tư trên 310 tỷ đồng trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế. Nhiều công trình, dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác: Điện Long An, hệ thống Trường lang Tử Cấm Thành, Thái Bình Lâu, Lầu Ngũ Phụng, Điện Thọ Ninh - Đại Nội...; Hệ thống di tích lịch sử, cách mạng, di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh lam thắng cảnh tiếp tục được tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị.
Các loại hình văn hoá phi vật thể, nhất là Nhã nhạc Cung đình, nghệ thuật dân gian, lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa Huế; các loại hình ca Huế, ca kịch Huế, hò Huế và các làn điệu dân ca, dân nhạc, dân vũ các dân tộc thiểu số được đầu tư nghiên cứu, sưu tầm, khôi phục và phát huy. Văn hoá ẩm thực Huế, kiến trúc Huế, y phục cổ truyền Huế và nhiều làng nghề truyền thống được bảo tồn, khôi phục và phát triển, tạo bản sắc văn hóa độc đáo của riêng Huế.
Tỉnh đã tập trung chỉ đạo đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch; mở rộng và phát triển nhanh các cơ sở lưu trú, hệ thống các nhà hàng, nhà vườn... gắn với nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại du lịch như: du lịch văn hoá, di sản; du lịch tâm linh; du lịch nghỉ dưỡng; du lịch biển và đầm phá; du lịch làng nghề... Toàn tỉnh có trên 541 cơ sở lưu trú, với hơn 10.141 phòng, có 25 khách sạn từ 3 đến 5 sao, trong đó có 5 khách sạn năm sao, đảm bảo lưu trú cùng lúc trên 18.000 du khách.
Ngày càng khẳng định là trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung và cả nước
Trung tâm y tế chuyên sâu ngày càng khẳng định vai trò, vị thế với hệ thống thiết chế phát triển mạnh và đồng bộ, bao gồm Bệnh viện Trung ương Huế, Trường Đại học Y Dược Huế, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm; các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành và mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở.
Bệnh viện Trung ương Huế - một trong bốn bệnh viện hạng đặc biệt của cả nước ngày càngđược đầu tư hoàn thiện, hiện đại hoá trang thiết bị; đã triển khai trên 3.500 loại kỹ thuật y tế về chẩn đoán và điều trị chuyên sâu, tiên tiến trong các lĩnh vực tim mạch, ghép tạng, điều trị ung thư, chẩn đoán hình ảnh, nội soi can thiệp, ngoại sản, hồi sức cấp cứu; trong đó, đã phẫu thuật thành công 10.000 ca mổ tim, 14.000 ca chụp mạch vành đặt stent, triển khai thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm với 500 em bé ra đời; đặc biệt, đã thực hiện thành công ca ghép thận phức tạp và ca ghép tim đầu tiên do thầy thuốc Việt Nam thực hiện, đưa Việt Nam vào bản đồ ghép tim trên thế giới.
Trường Đại học Y Dược Huế là trường trọng điểm vùng theo mô hình Viện - Trường, với đội ngũ giảng viên chất lượng cao, không ngừng mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo; phát triển theo mô hình Đại học Khoa học sức khỏe; với 108 chuyên ngành đào tạo, quy mô đào tạo gần 12.000 sinh viên, học viên sau đại học trong và ngoài nước; là nơi cung cấp nguồn nhân lực y tế dồi dào, chất lượng cao. Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế có quy mô 500 giường bệnh, được đầu tư từng bước hiện đại nhằm thực hiện nhiều kỹ thuật tiên tiến, chuyên sâu trong chẩn đoán và điều trị bệnh; có Trung tâm Gamma hiện đại trong điều trị ung thư, Trung tâm nội soi tiêu hóa hiện đại của khu vực và quốc tế.
Trung tâm Kiểm nghiệm thuốc - mỹ phẩm - thực phẩm đã đáp ứng yêu cầu của một trung tâm khu vực. Hệ thống phòng kiểm nghiệm được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO/IEC17025:2005 trên 3 lĩnh vực dược, hóa, sinh học; đã triển khai hầu hết các kỹ thuật trong phân tuyến kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế.
Đội ngũ y, bác sĩ và cán bộ quản lý ngành y tế phát triển nhanh về số lượng, được đào tạo căn bản, có năng lực, trình độ chuyên môn cao, y đức tốt, có khả năng đáp ứng yêu cầu triển khai các kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong công tác khám và chữa bệnh. Có 60 giáo sư và phó giáo sư, 7 thầy thuốc nhân dân, 84 thầy thuốc ưu tú, 122 tiến sĩ, 126 bác sĩ chuyên khoa cấp II, 425 thạc sĩ, 321 bác sĩ chuyên khoa cấp I.
Các thiết chế khác của Trung tâm y tế chuyên sâu tiếp tục được đầu tư. Hoàn thành xây dựng Bệnh viện đa khoa của tỉnh với quy mô 500 giường bệnh; Bệnh viện Quốc tế quy mô 300 giường; Trung tâm Ung bướu miền Trung đang được đầu tư. Mạng lưới y tế địa phương được đầu tư xây dựng và phát triển khá toàn diện theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hoá. 100% trạm y tế cấp xã có bác sĩ, đáp ứng tốt nhu cầu khám, chữa bệnh, góp phần giảm tải cho tuyến trên; đồng thời, phối hợp với tuyến y tế Trung ương để chủ động làm tốt công tác phòng, chống dịch, kiểm dịch y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm và triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế có hiệu quả.
Tập trung xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của cả nước
Đại học Huế tiếp tục khẳng định vị thế của một trung tâm đào tạo đại học và sau đại học lớn ở miền Trung - Tây Nguyên, một trong 14 đại học trọng điểm quốc gia; với 7 trường thành viên, 3 khoa trực thuộc và phân hiệu tại tỉnh Quảng Trị, cùng với nhiều trung tâm, viện nghiên cứu. Tổ chức đào tạo 108 ngành bậc đại học, 71 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ, 31 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, 62 chuyên ngành đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I, cấp II, bác sĩ nội trú và 15 chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học uy tín nước ngoài; hàng năm đào tạo trên 95.000 sinh viên.
Học viện Âm nhạc Huế, Trường Đại học dân lập Phú Xuân, các cơ sở đào tạo, các viện, học viện của Trung ương trên địa bàn tiếp tục được đầu tư hoàn chỉnh và mở rộng quy mô đào tạo. Hệ thống và quy mô trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển nhanh (7 trường cao đẳng, 9 trường THCN, trung cấp nghề và dạy nghề với hơn 120 chuyên ngành cao đẳng, gần 50 ngành trung cấp chuyên nghiệp và 30 chuyên ngành dạy nghề).
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển nhanh về số lượng; trình độ và năng lực ngày càng cao. Trên địa bàn tỉnh hiện có 205 giáo sư, phó giáo sư, 24 giáo sư danh dự, hàng trăm giáo sư, phó giáo sư bán cơ hữu và thỉnh giảng; 470 tiến sĩ, 2.372 thạc sĩ, 164 nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú. Tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đạt gần 20% số lượng giảng viên cơ hữu, 67% giảng viên có trình độ sau đại học. 100% giáo viên các ngành học mầm non, phổ thông đạt chuẩn.
Giáo dục phổ thông và mầm non phát triển cả về quy mô và chất lượng. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi; học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng; nhiều học sinh đỗ thủ khoa, á khoa, đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia, quốc tế. Hệ thống trường học từng bước được kiên cố hóa, tầng hóa, cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học được tăng cường; Trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học và các thiết chế giáo dục đại học, chuyên nghiệp được đầu tư nâng cấp; cơ bản hoàn thành và đã đưa vào sử dụng Trường THCS chất lượng cao Nguyễn Tri Phương. Từng bước hoàn chỉnh Khu quy hoạch Đại học Huế tại Trường Bia.
Hoạt động hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học được tăng cường. Đã xây dựng được nhiều chương trình liên kết, hợp tác giao lưu với các trường tiên tiến trong khu vực và thế giới. Riêng Đại học Huế đã hợp tác về nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng và trao đổi cán bộ với 81 tổ chức và trường đại học lớn trên thế giới; tiêu biểu như Đại học công nghệ Virgina (Hoa Kỳ), Đại học Sydney (Australia), Học viện Sư phạm Quảng Tây và Học viện Bắc Hải (Trung Quốc), Đại học Rennes1 (Pháp), Đại học Okayama (Nhật Bản), Đại học Krems (Áo)...
Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm khoa học - công nghệ của cả nước
Khoa học - Công nghệ phát triển theo hướng khai thác các thế mạnh về khoa học xã hội và nhân văn, y dược, công nghệ thông tin. Hạ tầng, thiết chế về khoa học - công nghệ ngày càng phát triển hiện đại với hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; nhiều viện, phân viện và trung tâm nghiên cứu thuộc các bộ, ngành Trung ương. Đã tập trung đầu tư đưa vào hoạt động các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại như Trung tâm Tim mạch, Trung tâm Ung bướu (Bệnh viện Trung ương Huế), Trung tâm nội soi tiêu hoá (Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế), Trung tâm kỹ thuật, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Trung tâm kiểm định hoá dược, mỹ phẩm... Đã hoàn thành quy hoạch Khu công nghệ cao và dự án Bảo tàng thiên nhiên Duyên hải miền Trung.
Đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ trên địa bàn đông đảo và có trình độ cao, gồm: 11 giáo sư, 24 giáo sư danh dự, 195 phó giáo sư; hơn 550 tiến sĩ, tiến sĩ khoa học và chuyên khoa II; hơn 4.000 thạc sĩ và chuyên khoa I; 164 nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú; 91 thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú. Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh tập trung phát huy mạnh mẽ nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, gồm 38 tổ chức, 7 trung tâm, 2 câu lạc bộ, với 20.000 thành viên tham gia.
100% cơ quan Đảng, chính quyền từ cấp tỉnh đến cơ sở đã kết nối mạng LAN và áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN 9001 : 2008. Tỉnh thuộc trong nhóm đứng đầu toàn quốc về chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin. Hoàn thành Xây dựng hệ thống thông tin địa lý tỉnh Thừa Thiên Huế (GISHue), đưa vào khai thác, sử dụng.
Hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế được tăng cường. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu và cơ quan quản lý nhà nước từng bước được chú trọng. Bước đầu đã hình thành thị trường khoa học - công nghệ. Đầu tư nghiên cứu khoa học - công nghệ ngày càng tăng.