Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:

 

 

Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.871.386
Truy câp hiện tại 4.168
"học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách hồ chí minh"
Dân chủ, giàu mạnh với vấn đề Hạnh phúc
Ngày cập nhật 24/09/2009

Bài viết này vừa trình bày tại Hội thảo khoa học tại Học Viện Chinh trị- Hành chính khu vực II ngày 14-5-2009: “Di chúc Hồ Chí Minh với mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nhân kỷ niệm 40 ngày công bố Di chúc của Người(1969-2009). Tác giả quan tâm đến quan hệ giữa dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc cả ở cấp độ cá nhân, và quốc gia theo cách nhìn của chủ nghĩa duy vật nhân văn.

Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra nghịch lý: giàu có vật chất hơn lại thấy kém hạnh phúc hơn. Cho nên đã chú ý bàn về hạnh phúc, không chỉ ở cấp độ triết học mà cả kinh tế học. Song tôi nghĩ rằng cần bàn cả ở cấp độ chính trị học và xã hội học, văn hóa học, tâm lý học. Mục tiêu nào cuối cùng cũng quy về hạnh phúc.

Nhưng làm sao để cuộc sống “hạnh phúc hơn”? Hạnh phúc phụ thuộc vào những nhân tố chủ yếu nào?Và hạnh phúc là một mục tiêu lớn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa công sản, vậy thì Cương lĩnh của Đảng ta nên thể hiện thế nào? Bài viết góp phần thông tin, luận giải và nêu ra vấn đề đó.

1- Dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc

Chúng ta, biết rằng, tư tưởng và lý tưởng xuyên suốt cuộc đời họat động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhắm xây dựng một nước Việt Nam “Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu”. Hệ thống khái niệm đó và công thức đó, chủ yếu thể hiện mục tiêu phấn đấu của Người và cũng là của Đảng ta, dân tộc ta ngày nay. Cùng với tư tưởng về lực lượng cách mang, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thông qua tổ chức cách mạng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, lĩnh vực, con đường và phương thức thực hiện đã tạo nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ thuyết giải phóng và phát triển Hồ Chí Minh.

Ở bài viết này, nhân 40 năm thực hiện Di chúc Hồ Chí Minh, chúng tôi chỉ xin bàn dền vấn đề hạnh phúc ở cấp độ lý luận và thực tiễn đương đại, trong tương quan với dân chủ và giàu mạnh trong tư tưởng của Người.

Chúng ta cũng biết rằng trong tiêu đề của nước Việt Nam mới có cầu: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, độc lập, tư do, ấm no, hạnh phúc”. Còn trong tiêu đề “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, độc lập, tư do, hạnh phúc” thì khong thấy rõ khái niệm Dân chủ. Rồi trong phương châm và mục tiêu lớn hiện nay của tiến trình đổi mới và phát triển thì có cấu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì có cụ thể hóa hơn, nhưng thêm được Công bằng, Văn minh thì thiếu Hạnh phúc, hơn nữa Dân chủ đúng sau công bằng. Thực ra ý Hồ Chí Minh là có Dân chủ mới có Giàu mạnh và chúng quan hệ biện chứng với nhau. Nhưng điều chúng tôi muốn bàn là vấn đề HẠNH PHÚC không thể thiếu trong công thức trên và trong thực tế cuộc sống.

Hồ Chí Minh nhiều lần giải thích và cho rằng “CNXH là làm cho mọi người sung sướng”, tức hạnh phúc.

Hạnh phúc là một khái niệm và tư tưởng lớn đã có bản đến trong tư tưởng của triết học cổ Hy –La. Trong dân ta chữ Hạnh phúc- Sung sướng thường gắn với gia đình, như gia đình hạnh phúc. Cho nên khái niệm này rất gần gũi, dễ hiểu.

Nhưng ngày nay hạnh phúc được xem xét cả góc độ cá nhân, giá đình, cộng đồng và quốc gia: “Chỉ số hạnh phúc quốc gia”. Hơn nữa còn hình thành cả “Kinh tế học hạnh phúc”. Và xưa, như đã nói gần như có trường phái “Triết học hạnh phúc”. Trong khi nêu các vấn đề nghiên cứu của “Chủ nghĩa duy vật nhân văn”, chúng tôi đã đưa khái niệm Hạnh phúc vào hệ thống phạm trù của Triết học nhân văn này (xem, “Chủ nghĩa duy vật nhân văn” và định hướng nhân văn của sự phát triển xã hội, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1995, hoặc www. chungta.com).

Hạnh phúc là thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống theo từng giai đoạn và mức độ lịch sử. Và các mục tiêu hay nhu cầu lớn nói trên trong tư tưởng Hồ Chí Minh cuối cùng là ở tiêu chí Hạnh phúc.

Chúng tôi kiến nghị cần bổ sung khái niệm và nội dung Hạnh phúc vào mục tiêu quốc gia. “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, con người hạnh phúc”. Đó cũng là vấn đề văn hóa. “Con người hạnh phúc”, vừa rõ thêm mục tiêu phát triển người và vì cá nhân con người mà công thức hiện hành chỉ thấy Xã hội, Dân và Nước, không rõ Cá nhân, và Gia đình, nhất là theo truyền thống phương Đông và tư duy hiện đại ngày nay. Chúng tôi nhiều lần ghép từ Hạnh phúc vào công thức trên.

2- Hạnh phúc, vấn đề quốc gia và thời đại, toàn cầu

Sau đây xin tham khảo những ý kiến và tư liệu mới nhất về vấn đề hạnh phúc.

Về chỉ số Hạnh phúc thay chỉ số tăng truởng kinh tế (một chỉ số tổng hợp về văn hóa): Theo Lân Vỹ, trong bài viết "Thay chỉ số tăng trưởng bằng chỉ số hạnh phúc" (HPI), đã phân tích rất đáng chú ý như sau:

Trong thế giới tư bản, các cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế thường để lại nhiều vết thương, không những cho "thân xác" mà còn là "những vết thương lòng" gây tổn hại tinh thần cả một thế hệ. Trong giấc mơ giàu có, tăng trưởng, con người đã linh cảm về tính bất ổn của cuộc chạy đua kinh tế này, nhưng chỉ khi một cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra, cảm nhận đó mới được hiện thực hóa và người ta mới té ngửa ra rằng: hạnh phúc là một khái niệm không cùng nghiệm với giàu có. Câu chuyện về sự tỉnh thức này đang râm ran khắp nơi trên địa cầu, từ những quốc gia rất giàu đến những đất nước đang phát triển.

Nhiều người ở Châu Âu giàu có hiện đồng tình với ý niệm: kinh tế nên làm ra một cái gì đó khác hơn tiền mới giúp con người dễ chịu hơn… Tuy vậy một người Anh chính hiệu quý tộc: David Cameron, lãnh đạo đảng Bảo thủ và có thể là Thủ tướng Anh tương lai lại đồng ý vớt ý nghĩ của người Pháp khi ông ta ấp ủ ý niệm về chỉ số "General Well-Being, gọi tắt là TWB" (Tổng Giá trị Hạnh phúc) để thay thế cho chỉ số GDP truyền thống… Ngay đầu năm 2007, Tạp chí kinh tế hàng đầu của thế giới trụ sở tại Anh, tờ The Economist đã đưa ra một chuyên đề nghiên cứu chỉ độc một chữ: "Happiness". Trong đó chỉ ra rằng: dù rất thành công và giàu có về mọi mặt, cảm giác của dân cư tại các nước Anh, Mỹ đều không cảm thấy… hạnh phúc. Cho nên, họ cũng đồng tình việc tìm kiếm giải pháp thay thế chỉ số phát triển kinh tế GDP (Gross Domestie Product) bằng một cái gì đó nhân văn hơn như chỉ số GWB (Gross Well-being). Rõ ràng, khuynh hướng phát triển sao cho người dân thấy hạnh phúc (chứ không hẳn là giàu có thừa mứa, chạy đua tối mày mặt) đang dần chiếm ưu thế. Ở Mỹ, sự bất bình đẳng, làm việc quá mức và những cái giá còn dấu kín phải thanh toán cho sự thịnh vượng… đang bùng lên thành một cuộc tranh luận lớn. Chữ "Wellness"- sự dễ chịu là mục tiêu của việc chăm sóc sức khỏe tâm-thể cho con người (chứ không chỉ có mỗi health-sức khỏe của ngành Y tế) đang trở thành một ngành kỹ nghệ lớn, phát triển mạnh, lợi nhuận cao.

Xu thế nhận thức mới này tuy thế, lại không mới đối với các quốc gia Châu Á có nền tảng Phật giáo. Nhiều năm trước, nước Bhutan - nơi đức Phật sinh ra, nơi có vườn Lâm tì ni - nhà vua Bhutan đã đề ra chỉ số phát triển không đơn thuần nhắm đến của cải, gọi là GNP (Gross National Happiness - Tổng Hạnh phúc Quốc gia)… Diễn biến tình hình nước Thái từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á mười năm trước, mà đất nước này là nơi bắt đầu và là tâm của cơn chấn động, làm cho nhiều người Thái bừng tỉnh từ đó xuất hiện Kinh tế học Phật giáo (Buddhist Economics) như một con đường trung đạo… Lý thuyết của học thuyết này bác bỏ cách tăng trưởng quá nóng và đầy tính đầu cơ mà Thái Lan đã đi theo suốt nhiều năm qua với kết cục là cuộc sụp đổ gây tổn thất và chấn thương cho toàn xã hội hồi năm 1997… Ông Surayud Chulanont Thủ tướng lâm thời Thái Lan (trước khi đó Chính phủ dân cử mới hiện nay viết trong một nghiên cứu ấn hành bởi UNDP mang tên "Kinh tế Tri túc và Phát triển con người" (Sufficiency Economy and Human Development).

Ông muốn đẩy mạnh "hạnh phúc" thay vì tăng trưởng (Thay chỉ số tăng trưởng bằng chỉ số hạnh phúc bài của Lân Vỹ đăng trên Thể thao văn hóa & Đàn ông, 07/05/2008).

Hạnh phúc dưới góc nhìn kinh tế học hạnh phúc chúng ta nhận thấy gì?

Nhìn những gương mặt và ánh mắt đầy lo ngại của dân chứng khoán thế giới thời gian gần đây, khó có thể nói họ là những người hạnh phúc. Những râm ran hàng ngày xung quanh bức tranh suy thoái toàn cầu cũng làm cho người ta nghĩ rằng thế giới rõ ràng đang không hạnh phúc. Vậy khái niệm hạnh phúc hẳn luôn song hành với phát triển kinh tế - xét ở yếu tố vĩ mô; hay nói gần hơn là chỉ khi đời sống ít khó khăn chật vật, người ta mới thực sự hạnh phúc? Điều này đang được giới kinh tế học tranh luận gay gắt…

 

Điều gì mang lại nụ cười hạnh phúc? Đầu tiên hãy xét nước Italia. Chẳng nhà quan sát nào có thể nói Italia là một nước thịnh vượng. Luca Cordero di Montezemolo – Chủ tịch tập đoàn Fiat và hãng xe Ferrari – nói rằng, chính phủ Italia chẳng khác nào “chiếc xe quá nặng, quá đắt tiền và quá khó để vận hành. Nó cũng quá cũ đến mức bất luận ai ngồi trên ghế tài xế cũng không thể lái đến đích”. Theo lập luận này, chính phủ Italia không chỉ vận hành sai chức năng mà chính xác hơn là vận hành!

Trong hai năm 2004 – 2005, kinh tế Italia hoàn toàn giậm chân tại chỗ và trong hơn một thập niên, tính đến thời điểm này, nước Italia vẫn ì ạch với chỉ số phát triển gần như nằm ở đáy so với “mặt bằng” liên minh châu Âu (EU). Năm 2007, tỉ lệ tăng trưởng quốc gia Italia đạt 1,8%. “Tôi tin rằng nhiều người Italia cũng tự vấn câu hỏi tương tự, rằng tại sao chúng ta không thể lật thêm một trang mới cho nền kinh tế quốc gia” - phát biểu của cựu Thượng nghị sĩ Pino Arlachi. Ấy thế mà, theo kết quả thăm dò gần đây, dân Italia lại cảm thấy hạnh phúc. Có đến 71% đối tượng được khảo sát cho biết, họ hài lòng với cuộc sống hiện tại khi đề cập đến yếu tố gia đình, công việc và tương lai. Theo giáo sư khoa học chính trị Federigo Argentigeri thuộc đại học John Cabot (Rome), sở dĩ dân Italia thấy “đời vẫn đẹp sao” là do họ quen lối tư duy tách bạch giữa gia đình riêng với những gì diễn ra trong xã hội. Argentigeri nói thêm rằng, trong một quốc gia mà chính phủ thất bại trong việc đem lại nụ cười cho xã hội, người dân có khuynh hướng tựa vào gia đình. Nói cách khác, tiền không mua được hạnh phúc ở Italia.

Câu chuyện ở Italia cũng thuận với kết quả khảo sát gần đây tại EU (công bố ngày 19/11/2008), cho thấy mức độ hạnh phúc. Theo cuộc khảo sát này (với đối tượng 30.000 công dân EU), Đan mạch và Phần Lan là những nước hạnh phúc nhất (Hungari và Bungaria thấp nhất trong khi Đức, Cộng hòa Séc và Slovakia ở giữa). Vậy có thể kết luận rằng tiền, hay chính xác hơn là thu nhập kinh tế không phải là viên gạch xây dựng nên ngôi nhà hạnh phúc? Có thể lấy điển hình Nhật bản, một trong những ví dụ được nêu nhiều nhất để chứng minh luận điểm trên. Sau Thế chiến thứ hai, kinh tế Nhật phát triển ở tốc độ gần như không tưởng. Từ năm 1950 – 1970, sản lượng kinh tế quốc gia đình theo đầu người tăng 7 lần. Tuy nhiên, trong cùng thời gian người Nhật chẳng có được niềm “hạnh phúc nhân bảy”. Năm 1974 nhà kinh tế học Richard Easterlin thuộc đại học Pennsylvania đưa ra nghiên cứu, khẳng định rằng tiền không thể mua được hạnh phúc, rằng dân chúng ở các nước nghèo vẫn hạnh phúc một khi họ có được những nhu cầu tối thiểu.

Tuy nhiên, vấn đề phức tạp hơn người ta tưởng. Lý thuyết Easterlin đang bị lung lay. Đặc biệt ở thời mà vấn đề thu nhập bị đe dọa nghiêm trọng (với loạt sa thải nhân viên) như hiện nay. Trung tuần tháng 4 năm 2008 trên website Viện nghiên cứu Brookings, Betsey Stevenson và Justin Wolfers thuộc Đại học Pennsylvania cho rằng tiền có thể mua được hạnh phúc, dù nó không đảm bảo được sự bền vững của giá trị hạnh phúc. Trong một gia đình, chỉ không có tiền, người ta dễ sinh gấu ó nhau và đi đến rạn nứt.

Dựa theo kết quả thăm dò Gallup tại khắp thế giời, hai nhà kinh tế học trên cho biết chỉ số hài lòng và thỏa mãn của công dân nước giàu luôn cao hơn nước nghèo. Tại Mỹ, khoảng 90% người tại các hộ gia đình có thu nhập ít hơn 250.000 USD/năm đều miêu tả họ là người “rất hạnh phúc”, và với hộ có thu nhập dưới 30.000 USD/năm, chỉ 42% có ý kiến tương tự. Một số nhà kinh tế học lỗi lạc, trong đó có Daniel Kahneman (từng đoạt giải Nobel) cũng đồng ý với Stevenson – Wolfers. Có thể thấy vấn đề tài chính ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình như thế nào nếu xem xét cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng tại Mỹ gần đây. Chẳng phải tự nhiên mà cây bút Time, Belinda Luscombe (trong số 23/10/2008) đã đặt tít bài phóng sự của mình là Will the Market Kill Your Marriage? (Liệu thị trường sẽ giết chết cuộc hôn nhân của bạn?), với nội dung cho thấy sự suy sụp kinh tế gia đình đã dẫn đến nhiều bi kịch chia rẽ hôn nhân. Tại sao tiền gắn liền với hạnh phúc? Đơn giản, bởi tiền giải quyết được những nhu cầu mang lại hạnh phúc. Tiền mang lại chất lượng sống. Mà chắc sẽ không có nhiều người có thể tự nhận mình hạnh phúc một khi họ có chất lượng sống kém.

Một khảo sát (đăng trên chuyên san Perspectives On Psychological Science tháng 7/2008) cũng ủng hộ lý thuyết của Stevenson – Wolfers. Được nhóm khoa học Đại học Michigan thực hiện, nghiên cứu trên cho thấy sự cải thiện và phát triển kinh tế quốc gia (ảnh hưởng đến kinh tế gia đình) đã trở thành yếu tố quan trọng cho tỉ lệ tăng giảm chỉ số hạnh phúc của một nước. Tương tự khảo sát mới nhất tại châu Âu, khảo sát của Đại học Michigan giữa năm 2008 cũng cho ra kết quả rằng Đan Mạch là nơi có nhiều người hạnh phúc nhất trong số 97 quốc gia được khảo sát (nằm chót bảng là Zimbabwe, nơi tỉ lệ lạm phát tính đến giữa tháng 11 năm 2008 là 231 triệu %!) Mỹ chỉ nằm ở hạnh 16 trong danh sách này.

Tiền và còn gì nữa? Tuy nhiên, mức độ phức tạp vấn đề chưa dừng lại. Trong cuộc sát trên 118.519 người tại 96 quốc gia được thực hiện giữa năm 2008, các nhà khoa học cho thấy mức độ gắn kết giữa thu nhập, điều kiện giáo dục, hoạt động xã hội tự nguyện và sự đóng góp vào sinh hoạt chính trị quốc gia (qua lá phiếu cử tri) cũng cho thấy mức độ hạnh phúc đạt được, trong đó tử lệ cao nhất là sự thể hiện mối quan hệ bền vững và chặt chẽ nhất giữa các yếu tố trên. Điều này được minh chứng trong trường hợp Thái Lan. Trong cuộc khảo sát giữa tháng 11 – 2008 do trung tâm nghiên cứu – thăm dò Abac thực hiện, chỉ số hạnh phúc quốc gia của người Thái đã tuột ở mức thấp nhất trong 34 tháng, chỉ đạt 4,84/10 điểm. Hầu hết ý kiến đều cho rằng tình hình chính trị quốc gia rối ren đã khiến họ trở thành những người “bất hạnh nhất thế giới”.

Dù thế nào, lập luận rằng tiền có thể mua được hạnh phúc chưa bao giờ đứng vững. Richard Ball – giáo sư kinh tế thuộc Đại học Haverfod, tác giả báo cáo Absolute Income, Relative Income and Happiness, trình bày tại hội thảo Hiệp hội nghiên cứu chất lượng cuộc sống quốc tế tổ chức tại Philadelphia tháng 11-2004 – cho biết hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi thu nhập luôn thấp hơn quan hệ hôn nhân, sức khỏe và sự bảo vệ quyền tự do cá nhân.

Dù thừa nhận tâm lý con người thường có cảm giác thỏa mãn khi mình giàu có hơn hàng xóm nhưng Richard Ball nhấn mạnh rằng việc “chọn đúng hồ cá” là yếu tố quan trọng cho hạnh phúc. Vài người có cảm giác hạnh phúc khi là con cá to trong hồ nhỏ. Tính phức tạp của hạnh phúc nằm ở chỗ, cảm giác này không bất biến. Nó không tĩnh. Ngay cả ở các đối tượng được xem là hạnh phúc nhất cũng có những phút giây buồn bã hay phiền lòng. Thậm chí các đối tượng được xem là chán đời nhất cũng có những khoảnh khắc khiến họ mỉm cười. Và người ta đã lập ra nhiều phương pháp để đo lường hạnh phúc. Với Edward Diener (Đại học Illinois (Mỹ); tác giả quyển Rethinking Happiness phát hành cuối năm 2008) – mệnh danh “bác sĩ hạnh phúc”, một trong những nhà khoa học nghiên cứu hạnh phúc cặn kẽ nhất thế giới tâm lý học hiện nay – thang biểu đánh giá hạnh phúc là hệ thống đơn giản gồm 5 câu hỏi dùng tính điểm. Ngoài ra, hai thập niên qua, loạt nghiên cứu xã hội và tâm lý học cho thấy không có sự quan hệ then chốt giữa số tiền kiếm được và mức độ thỏa mãn có được.

Khảo sát của báo Time tại Mỹ vào tháng 12 – 2004 cho biết mức độ hạnh phúc có khuynh hướng tăng khi thu nhập tăng đến 50.000 USD/năm nhưng sau cột mốc đó, tiền nhiều hơn đã không mang lại ảnh hưởng cho niềm vui hạnh phúc. Tiền không hứa hẹn mang lại hạnh phúc, một phần bởi hiện tượng mà giới xã hội học gọi là “sự lo lắng liên quan”. Do vậy, một trong những nguyên nhân mang lại cảm giác bất hạnh là đối tượng không tự thỏa mãn với những gì đang có. Kinh tế gia Carol Giraham (Viện nghiên cứu Brookings, Washington DC) cho biết sự kỳ vọng tương lai có ảnh hưởng ít nhiều đến cảm giác hạnh phúc. Tuy nhiên, bi kịch cuộc đời ở chỗ tất cả chúng ta đều được “điều kiện hóa” để nghĩ rằng sẽ không ổn chút nào nếu năm nay không kiếm được nhiều tiền hơn năm ngoái, và như vậy chúng ta không nhớ mình đang có gì và mức độ cuộc sống hiện tại đã có thể được xem là đạt “chuẩn hạnh phúc” đối với nhiều người khác…

Có thể lấy ý kiến của nhà tâm lý Martin Seligman (Đại học Pennsylvania) làm kết luận. Trong quyển Authentic Happiness, Selgman cho rằng có ba thành tố tạo ra hạnh phúc: sự vui thích, sự thu hút (gia đình, công việc, tình cảm, sở thích…) và ý nghĩa. Trong ba con đường dẫn đến hạnh phúc trên, Seligman cho rằng sự vui thích là yếu tố có giá trị thấp nhất. (Nguồn: Sài Gòn thứ bảy, Mạnh Kim, Kinh tế học hạnh phúc, Chungta.com, 25/01/2009)


Chỉ số môi trường văn hóa thông qua chỉ số hạnh phúc và chỉ số khác:

Theo Hồ Sĩ Qúy, có thêm một chỉ báo nữa có thể được chọn làm căn cứ đánh giá môi trường văn hóa ở Việt Nam: Giữa năm 2006, NEF, một tổ chức nghiên cứu xã hội có uy tín ở Anh, đã đánh giá chỉ số hạnh phúc (HPI) của 178 nước trên thế giới tính đến thời điểm đó. Điều thú vị là, NEF đã đo đạc và xếp Việt Nam đứng thứ 12 trong số 178 nước với chỉ số hạnh phúc tổng hợp là 61,2, trên cả Trung Quốc (31/178), Thái Lan (33/178), Italia (66/178), Nhật Bản (95/178), Mỹ (108/178) và hơn 160 nước khác. Theo chỉ số này, hạnh phúc của mỗi cộng đồng được đo bằng số năm trong vôn tuổi thọ mà con người cảm thấy hài lòng với cuộc sông của mình trên cơ sở tính toán điều này có phù hợp với điều kiện tài nguyên tự nhiên được phép tiêu dùng hay không. Nghĩa là, hạnh phúc không nhất thiết đi liền với mức độ giàu - nghèo, hay trình độ phát triển - kém phát triển, hạnh phúc trước hết là mức độ con người hài lòng với cuộc sống của mình.

Cách xếp hạng trên có thể phải bàn luận thêm. Nhưng, ở đây, trên bình diện môi trường văn hóa, chúng tôi muốn khai thác kết quả nghiên cứu của NEF về mức độ hài lòng của người Việt Nam với cuộc sống hiện tại của mình. 61,2 % cư dân Việt Nam thừa nhận là hạnh phúc, nghĩa là hài lòng với cuộc sống hiện tại, theo chúng tôi, là con số có thể tin được. Con số này cũng trở nên quý giá hơn nếu lưu ý, mức lý tưởng trong điều kiện hiện nay là quốc gia nào đó có 83,5% chứ không phải 100% cư dân hài lòng với cuộc sống của mình (nước xếp thứ 1/178 về chỉ số hạnh phúc là quốc đảo Vanuatu, nhưng chỉ số cũng mới chỉ là 68,2, còn xa mới đạt tới 83,5). Cuối cùng, một chỉ báo khác, tuy phạm vi và thời gian khái quát có hẹp hơn so với quy trình nghiên cứu chỉ số hạnh phúc của NEF, nhưng cũng hoàn toàn xứng đáng được chọn làm căn cứ đánh giá môi trường văn hóa ở Việt Nam: cuối năm 2006, Viện Gallup International (GIA, một tổ chức nghiên cứu xã hội học nổi tiếng) đã khảo sát mức độ lạc quan và bi quan của dân chúng tại 53 nước trên thế giới. Kết quả là người Việt Nam hoá ra dẫn đầu thế giới về mức độ tin tưởng vào tương lai. Trong gần 49.000 người tại 53 nước được hỏi, chỉ có 43% tin rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn, trong đó, Việt Nam: 94% tin tưởng vào tương lai, Hồng Kông: 74%, Trung Quốc: 73%, Ghana: 68%, Nigeria: 66%, Thái Lan: 53%, Singapore: 52%. Những nước có số người bi quan nhiều nhất khi nhìn về tương lai là ấn Độ: 32%, Indonesia: 33%, Philippines: 84%, Iraq: 43%, và Hi Lạp: 44%.

Dĩ nhiên, những nghiên cứu nói trên không phải đã tuyệt đối thuyết phục và khi nghe người bên ngoài ca ngợi Việt Nam hạnh phúc hay lạc quan nhất thế giới, thì cũng không ai quên Việt Nam vẫn mới chỉ là nước có GDP thấp và nhiều mặt còn cách các nước trong khu vực khá xa. Nhưng, chính điều đó lại càng làm cho việc đánh giá tâm thế phát triển ở Việt Nam trở nên có ý nghĩa hơn.

Chưa bao giờ môi trường văn hóa ở Việt Nam lại phong phú và đa dạng, lại năng động và tích cực, lại khích lệ và cám đỗ, lại có nhiều cơ hội và thách thức... như hiện nay. Có thể nói như vậy với thái độ hoàn toàn nghiêm túc và khách quan. Mức độ phong phú và đa dạng, nhịp điệu năng động và tích cực của môi trường văn hóa Việt Nam hiện đã đủ để nuôi dưỡng mọi ý tưởng tất đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát kiến, sáng tạo. Nhưng mặt khác, mặt trái của nó cũng là những thách thức khiến bất cứ cá nhân, gia đình, cộng đồng nào cũng phải cảnh giác.

Sẽ là cực kỳ nguy hiểm nếu chỉ nhìn sự phát triền của xã hội Việt Nam ngày nay với con mắt lạc quan đến mức mất cảnh giác cho rằng, không nhân tố tiêu cực nào có thể cản trở hoặc làm hỏng sự phát triển xã hội. Trong điều kiện toàn cầu hóa, người ta buộc phải tính đến tình trạng ung nhọt, đôi khi có thể tiêu hủy cả một thể. Thế giới ngày nay rất dễ bị thương đổ vỡ, hoặc bùng nổ vì những nguyên nhân có thể chỉ là bất ngờ hoặc không tất yếu Việt Nam, dĩ nhiên, không nằm ngoài trật tự chung đó.

Cuối cùng, cũng sẽ là thiển cận hoặc không sáng suốt nếu chỉ nhìn sự phát triển của xã hội Việt Nam ngày nay với con mắt thuần túy bi quan. Môi trường văn hóa Việt Nam hiện có không ít nhân tố tiêu cực và không bình thường, thậm chí rất không bình thường. Song nếu biết khống chế một cách sáng suốt, thì phần lớn những điều bất bình thường và những nhân tố tiêu cực đó, nhiều lắm cũng chỉ đến mức là cái bệnh tất nhiên hay khó tránh của một cơ thể đang phát triển.

Khi nhìn môi trường văn hóa Việt Nam qua lăng kính tâm thế phát triển của đại đa số cư dân, qua đánh giá tích cực và có thiện cảm của những chuyên gia nước ngoài, qua số liệu về mức độ lạc quan, hay qua chỉ số hạnh phúc của Việt Nam mà thế giới đã đo đạc và công bố, chúng ta phải thừa nhận rằng, nét chủ đạo của môi trường văn hóa Việt Nam hiện nay là tốt đẹp và lành mạnh, chứ không phải ngược lại. (Theo Tạp chí Triết học, chungta.com, cập nhật lần cuối: 08/07/2007 07:18:20 AM).

90% người Việt Nam cảm thấy cuộc sống cân bằng.

Ngày 29-7-2008, ông Sandip Rakhit, Tổng Giám đốc Grey Group Việt Nam, đã công bố một nghiên cứu về các loại nhu cầu người tiêu dùng Việt Nam và 16 nước châu Á có tên là Eye on Asia. Đây là chương trình nghiên cứu hàng năm do Tập đoàn Grey Group thực hiện.

Kết quả nghiên cứu cho biết có tới 96% người Việt Nam và Đài Loan cho rằng một trong những yếu tố khiến người châu Á lạc quan và hạnh phúc là có đủ tiền. Hầu hết người châu Á cảm thấy căng thẳng, bị áp lực từ công việc để nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, 90% người Việt Nam cảm thấy cuộc sống cân bằng trong khi người Nhật chỉ có 37%. Ở Việt Nam có 77% người ưa chuộng các thương hiệu nước ngoài, tuy nhiên con số trung bình này trên toàn châu Á chỉ 40%. 90% người Việt Nam cảm thấy cuộc sống cân bằng (Theo báo điện tử Pháp luật thành phố, ngày 30-07-2008 00:15:00 GMT +7)

TS Hồ Bá Thâm

Nguồn chungta.com
Các tin khác
Xem tin theo ngày