Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”(1).
Mục tiêu, phương hướng phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là một trong những “thước đo” chất lượng và hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, khả năng đề ra đường lối, chính sách và phổ biến đường lối, chính sách đó vào trong thực tiễn của Đảng. Qua đó, có thể thấy được năng lực, chất lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nước ta (mà biểu hiện trước hết và tập trung nhất là những người trực tiếp tham gia quá trình soạn thảo, góp ý để hình thành các mục tiêu, phương hướng nói trên); cũng đồng thời cho thấy sức mạnh tri thức và nội lực của đông đảo người dân nước ta được thể hiện thông qua những ý kiến đóng góp và sự hưởng ứng, đồng tình của họ đối với các mục tiêu, phương hướng này. Cũng chính từ đây, sự dân chủ, đồng thuận xã hội sẽ có cơ hội được thể hiện.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, mục tiêu tổng quát của 5 năm 2011- 2015 là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Có thể hiểu mục tiêu, phương hướng đó ở các khía cạnh, lĩnh vực chủ yếu sau:
- Về hài hoà xã hội, bảo đảm cho mọi người trong xã hội đều được hưởng sự công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Công bằng xã hội chính là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Quan niệm đó đòi hỏi tất cả những người lao động ngày nay đều phải nhận thức rõ mình là người chủ nước nhà, và khi đã có quyền hạn làm chủ, thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ, đó là cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Công bằng xã hội, bình đẳng xã hội được hiểu là cần bảo đảm các tiêu chuẩn công bằng, bình đẳng về: 1. Cơ hội (sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các cơ hội); 2. Được hưởng như nhau cho những đóng góp bằng nhau; 3. Công bằng về độ thoả dụng; 4. Các quyền bình đẳng; 5. Xác định ưu tiên đối với việc cải thiện điều kiện ít thuận lợi nhất.
Từ Đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta từng bước được chuyển đổi sang phương thức quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu, với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hòa lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của từng người lao động. Quan điểm đó mang thuộc tính của thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về an sinh xã hội (chủ yếu là bảo hiểm xã hội và các vấn đề xã hội như dân số và việc làm, xoá đói giảm nghèo, tiền lương và thu nhập, chăm sóc y tế,…): Hệ thống an sinh xã hội gồm các chính sách vĩ mô liên quan đến công bằng xã hội, các văn bản pháp luật như Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em, Pháp lệnh về chính sách người có công, người tàn tật, người cao tuổi… Các chương trình mục tiêu quốc gia và các quỹ an sinh xã hội ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi trong đời sống thực tiễn, nhằm mục tiêu cuối cùng là tái tạo và phát triển các tiềm năng con người – nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Có thể thấy một số điểm cơ bản của vấn đề này:
+ Về công tác dân số, tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng, phấn đấu đạt chỉ tiêu về dân số trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020. Chú trọng nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng; xây dựng các quy hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp ứng xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số ở nông thôn và thành thị. Đưa công tác dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp đi vào nền nếp, vào từng gia đình, có chiều sâu và mang tính bền vững.
+ Về chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng và đặc biệt là lao động ở khu vực dịch vụ trong tổng lao động xã hội. Đồng thời, ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
+ Về bảo hiểm xã hội, ở nước ta hình thành ba bộ phận chính là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bồi thường tai nạn lao động. Cơ chế, chính sách đối với những đối tượng được hưởng các loại bảo hiểm này ngày càng được hoàn thiện và mở rộng, dưới nhiều hình thức đa dạng. Do đó, tạo điều kiện thuận lợi, công bằng hơn cho người dân trong việc tiếp cận các loại hình bảo hiểm, bồi thường.
- Về an ninh xã hội, quan điểm “kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh” của Đảng ta đã và đang ngày càng chứng tỏ được sự đúng đắn và tầm quan trọng của nó, theo phương châm phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta chủ trương thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội củng cố hoà bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo. Sự củng cố, phát triển an ninh xã hội phải được thực hiện ngay trên từng địa bàn lãnh thổ, từ công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch và hình thành các dự án đầu tư phát triển; xây dựng mỗi tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc, nhằm ngăn chặn kịp thời và đấu tranh hiệu quả với các tệ nạn xã hội phát sinh trên địa bàn, cũng như với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
- Về ưu đãi xã hội, thực hiện các chế độ, chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng… Ví dụ, ưu tiên cho các đối tượng trên trong tuyển dụng việc làm, đi học…; thực hiện chế độ trợ cấp hằng tháng cho thương binh, gia đình liệt sĩ và các Mẹ Việt Nam anh hùng… Đặc biệt, trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, chủ trương, đường lối của Đảng về ưu đãi xã hội còn được mở rộng và phát triển tới các đối tượng là trí thức, doanh nhân… ở cả trong và ngoài nước có đóng góp hoặc có khả năng đóng góp lớn cho sự phát triển của từng lĩnh vực, từng ngành, hoặc của đất nước, thể hiện ở việc Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, văn hoá,… kịp thời và hiệu quả nhằm tạo ra môi trường làm việc, đầu tư thiết thực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thu hút nhân lực và nguồn chất xám tinh hoa của người dân trong nước và trên thế giới.
- Về môi trường cho phát triển xã hội (trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh - quốc phòng, đối ngoại và với vấn đề phát triển môi trường), Đảng tạo môi trường và điều kiện thuận lợi, trên cơ sở nền tảng là đề ra các chủ trương, đường lối, định hướng phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng… một cách vững chắc, bởi các yếu tố này có mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng và hỗ trợ lẫn nhau. Sự phát triển của yếu tố này là tiền đề và điều kiện, hoặc có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của yếu tố kia và ngược lại. Ở cấp độ quốc gia, chúng ta đang thúc đẩy quá trình quảng bá hình ảnh Việt Nam là một đất nước hòa bình, thân thiện, ổn định và mến khách, là “điểm đến của thiên niên kỷ mới”, với những vẻ đẹp tiềm ẩn (“hidden charm”) về cả thiên nhiên lẫn con người và môi trường xã hội… Ở cấp độ nhỏ hơn, mỗi cấp, ngành, mỗi lĩnh vực đều cố gắng làm việc, học tập, phấn đấu, tận dụng các thành quả từ nền kinh tế tri thức tiên tiến của nhân loại… để góp phần chung sức xây dựng nên một môi trường xã hội Việt Nam thực sự là môi trường lý tưởng, thuận lợi và nhiều tiềm năng cho các hoạt động đầu tư, du lịch, kinh doanh… Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế nước ta đang có những bước phát triển mới, với nhiều loại hình kinh tế, Đảng ta đã chủ động đề ra những chủ trương, chính sách bảo đảm cho các thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng, có quyền lợi và cơ hội như nhau.
Những mục tiêu, phương hướng cơ bản trên, nhìn ở góc độ mục đích, là đích đến; nhìn ở góc độ phương hướng phát triển, là thể hiện xu thế và yêu cầu đặt ra đối với mục tiêu, phương hướng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển xã hội và quản lý xã hội đến năm 2020. Chúng quy định tính chất và xu thế lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, cũng như đặt ra các yêu cầu khắt khe về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong hiện tại và tương lai.
Nhìn ở góc độ triết học, việc đề ra mục tiêu, phương hướng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển xã hội luôn có ảnh hưởng, tương tác và liên quan đến việc đề ra mục tiêu, phương hướng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự quản lý phát triển xã hội và ngược lại. Xét ở một khía cạnh, đây chỉ là hai mặt thống nhất, có tác động tương tác đến nhau của một vấn đề chung: nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng về các lĩnh vực nói trên. Song, như chúng ta đã biết, giữa lý luận và thực tiễn, giữa lý luận và thực hành, giữa lý thuyết quản lý và thực tiễn quản lý bao giờ cũng có một độ “vênh” nhất định. Do đó, nếu như yêu cầu về nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển xã hội thiên về tính chất cụ thể, “hành” (thực hành) nhiều hơn, thì yêu cầu về nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự quản lý phát triển xã hội thiên về việc đòi hỏi trực tiếp và sâu sắc hơn về cái tâm và tầm của các nhà lãnh đạo, quản lý - những người trực tiếp làm công tác chỉ đạo, điều hành việc đề ra các chủ trương, đường lối đó.
Như vậy, về mục tiêu, phương hướng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đến năm 2020, có thể khái quát thành những điểm chính sau:
- Thứ nhất, về phương diện quản lý, Đảng Cộng sản Việt Nam là người trực tiếp và duy nhất lãnh đạo việc phát triển xã hội và quản lý xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đến năm 2020 mà còn cả những chặng đường về sau, nhằm bảo đảm sự thống nhất, tập trung, đoàn kết, đồng thuận trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo việc đề ra và thực hiện những chủ trương, đường lối đó từ trên xuống dưới.
- Thứ hai, về hoạch định các đường lối, chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, cần được tiến hành trên cơ sở có khảo sát, điều tra tình hình và yêu cầu thực tiễn, tìm hiểu nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân, các đối tượng (tuỳ theo yêu cầu, tính chất và khả năng tác động, ảnh hưởng của từng chủ trương, đường lối về từng lĩnh vực cụ thể), và của các chuyên gia trên từng lĩnh vực để thu được những đóng góp, nhận xét có tính chất chuyên sâu, nhằm giúp việc hoạch định các chủ trương, đường lối đó bảo đảm được các yêu cầu về phát triển bền vững.
- Thứ ba, về nguồn nhân lực phục vụ cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, mà cụ thể nhất là cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hiện nay, Đảng ta rất chú trọng tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên được đi học ở trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ, hình thành đội ngũ cán bộ và cán bộ nguồn hội đủ tâm và tầm, góp phần giúp Đảng đề ra được những chủ trương, đường lối, biện pháp quản lý phát triển xã hội hợp lý, vừa bảo đảm phù hợp yêu cầu thực tế, vừa có khả năng hướng tới việc quản lý xã hội bền vững.
- Thứ tư, mở rộng hơn nữa sự dân chủ và huy động hiệu quả nguồn lực tri thức và sức lực của đông đảo người dân Việt Nam trong nước và ngoài nước, cũng như sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế thông qua việc tăng cường các “kênh” truyền thông đại chúng, giao tiếp xã hội… nhằm tạo điều kiện cho họ được đóng góp ý kiến, công sức của mình phục vụ sự phát triển xã hội, cũng chính là không ngừng nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân. Xét cho cùng, nhân dân là người được hưởng lợi từ các chủ trương, đường lối phát triển xã hội do Đảng đề ra. Chính từ đây, năng lực và hiệu qủa lãnh đạo, chỉ đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của Đảng ngày càng được phát huy và củng cố.
- Thứ năm, sử dụng công nghệ thông tin như một phương tiện hữu hiệu nhằm hiện đại hoá quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển xã hội từ Đảng đến Nhà nước và các cơ quan công quyền, các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân… hoạt động, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ở nước ngoài nhưng có mối quan hệ hợp tác, làm ăn… với các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân… nước ta. Hoạt động này tạo một kênh truyền thông hữu hiệu vừa giúp Đảng đưa những thông tin về chủ trương, đường lối phát triển xã hội và quản lý xã hội của mình một cách nhanh chóng, chính xác đến đông đảo nhân dân, vừa giúp tiết kiệm chi phí hội họp, đi lại…, vừa có khả năng lan tỏa rộng rãi không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn trên toàn cầu v.v.. Từ đó, giúp rút ngắn thời gian và khoảng cách phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, đường lối đến người dân, cập nhật và nâng cao hiệu quả thông tin, tuyên truyền, nâng cao vị thế và hình ảnh của Đảng trong lòng nhân dân; hiệu quả lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội cũng từ đó được nâng cao hơn.
Với những nội dung trên từ Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa thể hiện rõ vai trò của một đảng cầm quyền trong điều kiện duy nhất một đảng ở nước ta hiện nay./.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 98-99