Những thành tựu to lớn về phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 85 năm qua có thể khái quát ở những vấn đề sau:
Những thành tựu phát triển lý luận trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Một trong những thành tựu lý luận quan trọng, thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng là đã nhận thức đúng bản chất và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh; xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đó là hệ thống, quan điểm về xây dựng Đảng cầm quyền; là tư tưởng về giải phóng dân tộc; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa...
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và dân tộc ta; là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 85 năm qua, tiếp tục soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.
Xác lập luận điểm cách mạng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - quy luật và nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước Việt Nam chìm trong đêm đen nô lệ, lầm than. Các phong trào đấu tranh yêu nước đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân bất thành của phong trào dân tộc trước khi Đảng thành lập là thiếu một hệ lý luận tiên tiến và cách mạng. Trên hành trình tìm kiếm con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và hình thành tư tưởng cứu nước theo xu thế phát triển của thời đại mới: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(1).
Dòng mạch tư duy đó của Nguyễn Ái Quốc đã phát triển đến đỉnh cao và trở thành đường lối chiến lược do Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập ngay khi ra đời vào ngày 3-2-1930. Nhận thức và hành động theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cùng với việc xác lập một hệ luận điểm giải quyết một cách đúng đắn, hài hòa và sáng tạo mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống “hai đế quốc to”, đứng vào hàng ngũ tiền phong của các dân tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh phá bỏ nô dịch dân tộc, xây dựng nền độc lập bền vững gắn kết chặt chẽ với tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân, với bình đẳng và tiến bộ xã hội. Nguyên lý độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội tiếp tục là định hướng lý luận cơ bản, một trong những nhân tố hàng đầu bảo đảm cho những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới trong những năm vừa qua và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Phát triển lý luận chiến tranh nhân dân Việt Nam độc đáo và sáng tạo trong thời đại Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần những nguyên lý về chiến tranh và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa những tinh túy của “chiến tranh toàn dân” cứu nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng và không ngừng phát triển hệ thống lý luận đạt tầm một học thuyết chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Lý luận về chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới bao hàm mối quan hệ hữu cơ giữa tính chất “của dân”, “do dân” và “vì dân” với điểm tựa là chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp trong một mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chiến tranh nhân dân không chỉ là giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược, mà còn đồng thời là giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích áp bức, bóc lột; không chỉ giành và giữ vững độc lập dân tộc mà còn trực tiếp mang lại và bảo vệ những lợi ích căn bản, lâu dài cho mọi tầng lớp nhân dân. Đây là điểm khác biệt giữa chiến tranh nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo với chiến tranh toàn dân truyền thống trong lịch sử, là một thành tựu phát triển lý luận của Đảng về chiến tranh cứu nước và giữ nước.
Bắt đầu hình thành trong kháng chiến chống Pháp và phát triển, đạt đến trình độ cao trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, hệ thống lý luận của chiến tranh nhân dân Việt Nam bao gồm những luận điểm, những kinh nghiệm phong phú. Đó là, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang làm nòng cốt; đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, khoa học và kỹ thuật...; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế; coi tư tưởng tiến công là quy luật giành chiến thắng; quán triệt tinh thần chiến tranh trường kỳ, giành thắng lợi từng bước; đánh giá đúng kẻ thù, chủ động kế sách đánh giặc với mọi hình thức và mọi thứ vũ khí, chủ động mở đầu và kết thúc chiến tranh... Những luận điểm trên được đúc kết từ thực tiễn, trở thành nguồn sức mạnh vô địch đưa cuộc hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thành công.
Lý luận chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là biểu hiện sinh động của trí tuệ Việt Nam, di sản vô giá, là lợi khí sắc bén không chỉ đối với nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện tại và tương lai mà còn là cống hiến quan trọng làm phong phú học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có tác động sâu sắc và lâu dài đối với nghệ thuật chiến tranh trên phạm vi thế giới.
Phát triển lý luận về xây dựng lực lượng cách mạng và chiến lược đại đoàn kết toàn dân.
Đoàn kết, tập hợp lực lượng là vấn đề chiến lược sống còn đối với mọi cuộc cách mạng. V. I. Lê-nin viết: “Chỉ có độc một mình đội quân tiên phong thôi thì không thể thắng nổi (...) đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa”(2).
Ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên, năm 1930, Đảng ta đã xác định, lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc tập hợp trong hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất, dựa trên nguyên tắc và lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông và trí thức làm nền tảng do Đảng lãnh đạo. Đây là những luận điểm mang tính cách mạng và khoa học, vừa vượt lên những hạn chế, quan điểm cứng nhắc về giai cấp đang phổ biến trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc đó, vừa khắc phục triệt để việc tập hợp mang tính ngẫu nhiên, lỏng lẻo, tự phát nhất thời của nhiều tổ chức yêu nước trước khi giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị. Tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo nguyên tắc trên là chủ trương đúng đắn của Đảng xuất phát từ đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành, từ nhu cầu của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội mưu cầu độc lập, tự do, tiến lên xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, do đó, mang tính xuyên suốt, bền vững và lâu dài. Cùng với chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Đảng đề cao đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước, các lực lượng yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới, coi đây cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng cách mạng.
Xây dựng lực lượng gắn với đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất là bộ phận hữu cơ cấu thành đường lối cách mạng, là sáng tạo lý luận có giá trị lâu bền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xác lập phương pháp cách mạng sáng tạo, đúng đắn và hiệu quả.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trên cơ sở mục tiêu chiến lược được xác định, căn cứ vào đặc điểm đất nước, vào đối tượng đấu tranh, quán triệt phương pháp luận biện chứng, quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành những luận điểm về phương pháp cách mạng đúng đắn và mang lại hiệu quả cao. Từ thực tiễn đấu tranh giành chính quyền và ba mươi năm chiến tranh giải phóng, Đảng khẳng định cách mạng là sáng tạo, không sáng tạo thì cách mạng không thể thành công, không bao giờ có một công thức duy nhất về cách tiến hành cách mạng.
Nhất quán về nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, Đảng sáng tạo nhiều phương pháp mẫu mực về xây dựng lực lượng, về hình thức đấu tranh, “thiên biến, vạn hóa” trong sử dụng bạo lực của quần chúng, trong lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, biết đánh và biết thắng,... Những thắng lợi to lớn trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ thể hiện rõ những nét đặc sắc về phương pháp tiến hành cách mạng, mang tầm cao trí tuệ của Đảng.
Những thành tựu phát triển lý luận về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Định hướng hệ mục tiêu và ngày càng làm sáng rõ, đầy đủ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua một quá trình thể nghiệm lâu dài, với nhiều vấp váp và hạn chế, Đảng xác định: Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với những chặng đường, bước đi cụ thể. Đặc biệt, từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn chưa có tiền lệ trên thế giới. Bằng việc nhận thức đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế, từng bước vận dụng, tổng kết các mô hình thực tiễn, dựa chắc vào sự sáng tạo của nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước phát triển một hệ thống lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với mục tiêu, con đường và những giải pháp tổng thể ngày càng sáng rõ hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(3). Nếu nhìn vào những mô hình chủ nghĩa xã hội hoặc đã sụp đổ, hoặc đang “lạc nhịp” với sự phát triển chung của thế giới, chúng ta mới thấy hết sức sáng tạo lớn lao của Đảng ta về mặt lý luận trong xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Thành tựu đạt được trong tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn thể hiện ở chỗ Đảng ta đã xác định được hệ mục tiêu của công cuộc đổi mới - những giá trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; xác lập được những điều kiện vàphương thức bảo đảm thực hiện bằng việc nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, chi phối sự thành bại công cuộc đổi mới. Đó là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới từng bước về chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Trên cơ sở định hướng mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác lập được hệ thống lý luận về con đường và những giải pháp cơ bản nhằm hiện thực hóa những mục tiêu đó.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể coi đây vấn đề đầu tiên đặt ra để hiện thực hóa các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ những nhận thức đầu tiên về công nghiệp hóa trong thập niên 60 thế kỷ XX, đến nay Đảng đã hình thành một hệ quan điểm về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa với những mục tiêu, nội dung, mô hình, phương thức và nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa tuân theo sự phát triển chung của thế giới, vừa phù hợp với đặc điểm riêng của Việt Nam. Theo đó, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường, đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; nhất quán trong việc phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển... Những bước phát triển về lý luận trên đây đã phát huy hiệu quả, mang lại những thành tựu trong thực tiễn hiện nay.
Thứ hai, xác lập và phát triển lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã vượt qua những sai lầm, hạn chế của nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, xác lập về mặt lý luận mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quy luật thị trường được tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đồng thời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là điều kiện bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam chính là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc, con người được sống trong môi trường dân chủ, công bằng, được phát triển tự do, toàn diện.
Thứ ba, định hướng xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam. Từ những luận điểm đầu tiên về xây dựng nền văn hóa cách mạng thông qua Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta có những sáng tạo lớn về mặt lý luận trong việc khẳng định vai trò to lớn của văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục mục tiêu, vừa là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã xác định rõ hơn các đặc trưng tiêu biểu của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhân dân ta xây dựng là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đảng xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy văn hóa phát triển.
Thứ tư, xác lập những cơ sở lý luận trên lĩnh vực giải quyết các vấn đề xã hội. Giải quyết vấn đề xã hội vừa thể hiện tính ưu việt của chế độ, vừa là yêu cầu của phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định một cách bao quát, đầy đủ hơn về tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội; hình thành một hệ thống luận cứ khoa học và nhận thức lý luận về việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, trong đó các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội phải bảo đảm tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi vùng, miền.
Thứ năm, xây dựng và phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Khẳng định mối quan hệ biện chứng, khăng khít giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng đề ra mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa...; định rõ phương châm chỉ đạo; xác định rõ sức mạnh, lực lượng và phương thức bảo vệ Tổ quốc; chuyển đổi tư duy “bạn - thù’ thành tư duy đối tác, đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc... Đặc biệt, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Thứ sáu, xây dựng và phát triển lý luận về đường lối và chính sách đối ngoại. Trong suốt quá trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước, Đảng luôn xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại phải bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; từ thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “là bạn với tất cả các nước...” đến “đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; từ “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, là “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, từ quan niệm “địch, ta” sang cách nhìn nhận có tính biện chứng về “đối tác”, “đối tượng” trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc thích ứng với từng giai đoạn lịch sử. Nền tảng nhất quán của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển.
Thứ bảy, xây dựng những cơ sở lý luận về phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, từ đòi hỏi của công cuộc đổi mới, những cơ sở lý luận về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được Đảng xác lập và đưa vào thực thi. Nội dung cốt lõi của nền dân chủ này là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”, dân chủ phải đi liền với kỷ cương, sống và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.
Thứ tám, phát triển lý luận xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Tuân thủ những nguyên lý xây dựng chính đảng vô sản kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, căn cứ vào đặc điểm Việt Nam, Đảng ta ngày càng có những phát triển và sáng tạo trong nhận thức lý luận về xây dựng Đảng, trong đó mấu chốt là vấn đề bản chất của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hiện nay cũng đang đặt ra những yêu cầu cấp bách về việc tiếp tục tổng kết, phát triển, hoàn thiện những vấn đề lý luận về phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền, về tổ chức, hoạt động của Đảng nhằm không ngừng nâng cao bản lĩnh, tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng, tạo cơ sở bền vững cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu đã đạt được, những định hướng phát triển lâu dài của đất nước đã và đang tạo động lực cho chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lý luận, luận giải thấu đáo những vấn đề lớn phải giải quyết trong quá trình phát triển đất nước; góp phần dự báo và đề xuất các căn cứ khoa học vững chắc để điều chỉnh, hoàn thiện chiến lược, sách lược, giải quyết đúng và trúng, thiết thực và hiệu quả các yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân./.
---------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 563
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 41, tr. 97
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
Tạ Ngọc TấnGS, TS. Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh