1. Thời kỳ tiền Thăng Long
Thời Hùng Vương, kinh đô đặt ở Văn Lang, vùng đất Thăng Long – Hà Nội lúc đó là một làng quê. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán (An Dương Vương) thay thế vua Hùng dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Kinh đô Cổ Loa đi vào lịch sử với tư cách là kinh thành, thị thành, quân thành, trung tâm đầu não chính trị, kinh tế của nước Âu Lạc. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính. Kể từ đó, Âu lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài ngàn năm, vùng đất Thăng Long – Hà Nội trở thành đại bản doanh của chính quyền đô hộ. Nửa sau thế kỷ VIII, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi tổ chức đắp La Thành. Năm 865 – 866, Tiết độ sứ Cao Biền cho đắp đê thành Đại La. Đặc trưng thành Đại La thời Bắc thuộc là quan, quân, dân chúng ở trong một vòng đê ngoài, mang tính chất quân sự, thiếu quy mô sinh hoạt kinh tế, văn hoá của các tầng lớp nhân dân.
Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, nhân dân Thăng Long – Hà Nội luôn bất khuất, quật cường khởi nghĩa chống quân xâm lược. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn đập tan ách đô hộ của nhà Hán, xây dựng kinh đô ở Mê Linh, khôi phục nhà nước độc lập. Năm 542 - 544, Lý Bí hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ), dấy binh đánh đuổi giặc Lương, lên ngôi hoàng đế, chọn đất dựng chùa “Khai Quốc”, đóng đô ở vùng đất thuộc Thăng Long - Hà Nội (ngày nay), đặt quốc hiệu của nước là Vạn Xuân. Khoảng năm 766 - 779, Phùng Hưng thủ lĩnh vùng Đường Lâm khởi binh kéo đại quân từ vùng núi Ba Vì về bao vây thành Đại La, lật đổ ách đô hộ nhà Đường, xây dựng chính quyền độc lập tới năm 791. Năm 905, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy chiếm giữ phủ thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, xoá bỏ chính quyền đô hộ. Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ tiến quân từ Ái Châu (Thanh Hoá) ra Bắc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi thành Đại La, khôi phục nền tự chủ từ năm 931 đến năm 937.
Thời tiền Thăng Long các bậc đế vương của nước ta, như: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền đã chọn đất thuộc vùng Thăng Long – Hà Nội để đóng đô, xây dựng nền độc lập.
2. Thăng Long thời Lý (1010 - 1225)
Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Chọn Thăng Long làm kinh đô, Lý Công Uẩn đã đứng trên “chủ thuyết phát triển”và cái nhìn toàn cục của quốc gia để chọn lấy một dải đất đắc địa bậc nhất của nước Đại Cồ Việt xây dựng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện cao độ ý chí độc lập, tự cường dân tộc.
Thời Lý kinh đô Thăng Long được xây dựng theo kiến trúc “Tam trùng thành quách” 3 vòng thành lồng nhau. Vòng thành ngoài gọi là thành Đại La. Vòng thành giữa gọi là Hoàng Thành, nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều của vua. Kinh thành được bao bọc bởi một toà thành bằng đất phát triển từ đê của 3 con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô ở phía Bắc và phía Tây, sông Kim Ngưu ở phía Nam. Nét nổi bật của kinh thành Thăng Long thời Lý là tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên và tạo ra sự hài hoà với kiến trúc nhân tạo. Dấu ấn Thăng Long thời kỳ này còn được lưu lại ở nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, như: đền Đồng Cổ xây dựng năm 1028, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột -1049), tháp Báo Thiên (1057). Trong công trình “Thăng Long tứ trấn”, nhà lý xây dựng hoàn chỉnh ba trấn là: quán Trấn Vũ, đền Bạch Mã, đền Voi Phục.... Năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu; năm 1075, mở khoa thi Nho học đầu tiên; năm 1076, tuyển những văn quan có học vào tu nghiệp ở Quốc Tử Giám. Trong công cuộc phục hưng nền độc lập nhà Lý đã đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, đặt nền tảng cho nền giáo dục đại học và nhiều ngành khoa học của nước nhà, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Vào giai đoạn thịnh đạt của nhà Lý, kinh đô Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước.
3. Thăng Long thời Trần (1226 - 1400)
Sau 215 năm cầm quyền, triều Lý lâm vào tình trạng suy yếu, không giữ được binh quyền. Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nhà Trần có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhìn tổng thể kiến trúc cung đình Thăng Long thời Trần không bề thế như thời Lý. Quy mô kinh thành Thăng Long cơ bản vẫn giữ ranh giới cũ. Năm 1230, nhà Trần sửa chữa thành Đại La và các cung thất, hoạch định lại các đơn vị hành chính; năm 1243 đắp lại Cấm thành. Năm 1253 tu sửa lại Quốc Tử Giám, lập Viện Quốc học, Viện Quốc sử, Giảng Võ đường đào tạo nhiều văn quan, võ tướng tài năng. Nho học được coi trọng và phát triển, chế độ khoa cử được tổ chức chặt chẽ. Từ năm 1247, nhà Trần đặt thêm học vị Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn (Tam khôi). Thăng Long thời Trần thu hút nhiều nhân tài từ các nơi về học tập. Khoa học quân sự thời Trần là yếu tố cấu thành văn hóa Đại Việt, tạo nên hào khí Đông A.
Kinh đô Thăng Long được quy hoạch lại thành 61 phường với số dân đông đúc hơn, tập trung trong khu vực dân sự, Thăng Long ngày càng rõ nét một thành thị với sự phát triển nhanh của phố, chợ, làng nghề thủ công. Nhà Trần có chính sách ngoại giao thông thoáng nhiều khách buôn nước ngoài đã đến đây làm ăn, sinh sống hoặc cư trú chính trị, như: người Hoa, người Hồi Hột, người Java… Kinh đô Thăng Long thời Trần là thành phố mở, hội tụ tinh hoa văn hoá của nhiều nước trên thế giới. Thời Lý và thời Trần nước Đại Việt nổi tiếng với 4 công trình nghệ thuật “An Nam tứ đại khí” làm bằng đồng: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm và đỉnh tháp Báo Thiên. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), đế chế Mông Cổ ba lần đem quân đánh chiếm Thăng Long. Quân dân ta đều chủ động, khôn khéo rút lui chiến lược khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng, sau đó bao vây, phản công quét sạch quân xâm lược. Thăng Long góp phần cùng nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại, ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông. Nền văn minh Đại Việt, hào khí Thăng Long, hào khí Đông A tỏa sáng, Thăng Long xứng đáng là kinh đô anh hùng của đất nước anh hùng.
4. Thăng Long thời Lê, thời Mạc, Lê Trung hưng (1428 – 1788)
Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau chín năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm 1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động “vừa đánh vừa đàm”,“vây thành diệt viện”, dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược và xin rút quân về nước. Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm thành, một toà thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hoà. Khu dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải; Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống…
Năm 1428, Lê Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3 lần luỹ đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau, dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng thời Lê, Mạc, Lê Trung hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào loại lớn ở Châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm.
4. Thăng - Hà Nội thời Tây Sơn (1788 - 1802)
Cuối năm 1788, Kinh đô và đất nước Đại Việt lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế chế Mãn Thanh. Từ Phú Xuân (Huế), vua Quang Trung thống lĩnh đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc, giải phóng Thăng Long. Giặc tan, vua Quang Trung về đóng đô ở Huế. Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành. Hoàng thành Thăng Long vẫn được nhà Tây Sơn cho tu sửa, đắp lại những đoạn bị sụt đổ. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm), chùa Tây Phương (Thạch Thất), tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán được tu bổ, tôn tạo; nhiều chuông to, đẹp được đúc. Sau chiến thắng vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ và nhân dân thu gom xác giặc, chôn cất và sai lập đàn chẩn tế, tu sửa chùa Bộc làm nơi quy y cho quân sĩ nhà Thanh; ban Chiếu khuyến nông, khuyến khích nhân dân trở về quê cũ khai khẩn ruộng bỏ hoang, phục hồi sản xuất; ban Chiếu lập học khuyến khích các địa phương mở trường học. Lập Viện Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia. Lịch sử triều đại Tây Sơn tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong trang sử Thăng Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng.
5. Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn và Pháp thuộc (1802 - 1945)
Lợi dụng cơ hội vua Quang Trung qua đời (1792), tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh từ miền Nam đánh chiếm Phú Xuân (1801), thăng Long (1802). Kinh đô nhà Nguyễn vẫn đặt ở Phú Xuân, Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Hoàng Thành bị phá bỏ, thay vào đó là một toà thành mới hình vuông, xây theo kiểu thành Vô - băng của Pháp. Năm 1831, Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội với tỉnh lỵ là phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ), Thăng Long được gọi là Hà Nội. Quốc Tử Giám, cơ quan giáo dục cao nhất của đất nước bị dời vào Huế. Tuy không còn là trung tâm chính trị, nhưng Hà Nội lúc đó vẫn là trung tâm kinh tế -văn hoá lớn nhất của cả nước
Cuối thế kỷ XIX, trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, Hà Nội đã đứng lên kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và người kế nhiệm là Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội đã anh dũng chống trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn nhu nhược đã ký “Hiệp ước hoà bình” (1883), công nhận quyền thống trị của Pháp trên cả nước. Hà Nội trở thành đất “bảo hộ” thuộc Bắc kỳ, đặt dưới quyền cai trị của một viên Thống sứ người Pháp. Tháng 7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh lập thành phố Hà Nội, gồm đất đai tỉnh lỵ Hà Nội, đứng đầu là một viên Đốc ký.
Chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của thực dân Pháp làm diện mạo của Hà Nội từ đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi. Các cơ sở hạ tầng được hoàn thành, trước hết là mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, cầu cống, trong đó có cầu Doumer qua sông Hồng. Thành cổ Hà Nội lại bị phá để xây các “khu nhà binh”, công sở. Điện Kính Thiên cũng bị phá huỷ, thay vào đó là nhà con Rồng hai tầng dùng làm sở chỉ huy pháo binh (1886). Đi đôi với việc hình thành các “khu phố Tây” (nằm trên các đường Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt…ngày nay), một số công trình khác mang phong cách Châu Âu được xây dựng, như: Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Ngân hàng Quốc gia, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, nhà Bưu điện, trường Viễn Đông Bác Cổ, ga Hà Nội…
Mặc dù thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo, phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (02/1930), lúc âm ỉ, lúc rầm rộ, không bao giờ tắt…Ngày 19/8/1945, thực hiện lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành đã nhất tề xuống đường đấu tranh giành chính quyền.
6. Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, công bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất Hà Nội được vinh dự chọn làm Thủ đô của cả nước trong kỷ nguyên mới.
Bước vào xây dựng cuộc sống tự do, dân chủ chỉ hơn một năm, nhân dân Thủ đô lại phải đương đầu với một cuộc xâm lược mới của thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến. Sau tám năm trường kỳ chiến đấu, ngày 10/10/1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô.
Hoà bình lập lại, Hà Nội khẩn trương bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã hoàn thành thắng lợi việc tiếp quản, nhanh chóng ổn định tình hình, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, cải tạo và xây dựng thành phố. Chỉ hơn một tháng sau giải phóng, thành phố đã thông qua kế hoạch phục hồi công thương nghiệp. Không khí hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố diễn ra sôi động. Một năm sau giải phóng, Hà Nội đã hoàn thành cải cách ruộng đất. Từ năm 1958 đến năm 1960 tiến hành xong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bộ mặt thành phố đổi mới từng ngày Sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965), Thủ đô đã trở thành trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế quan trọng trong cả nước.
Giữa năm 1966, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, đánh phá Thủ đô. Tháng 3/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 2/9/1969, Bác Hồ từ trần. Nhân dân Thủ đô Hà Nội tỏ rõ niềm tiếc thương vô hạn với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, ngày 9/9/1969, hơn 10 vạn cán bộ và nhân dân Thủ đô tới Quảng trường Ba Đình cùng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế dự Lễ truy điệu vĩnh biệt Người với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. Tháng 4/1972, Hà Nội trở thành mục tiêu đánh phá lần thứ hai của Mỹ. Cuối năm đó, chỉ trong vòng 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống địa bàn Hà Nội. Thể hiện bản lĩnh là “Thủ đô của phẩm giá con người”, quân dân Hà Nội đã lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”. Trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 358 máy bay các loại của Mỹ trong đó có 23 chiếc pháo đài bay B52, 2 chiếc F111 bị tan xác trên bầu trời Hà Nội; 83 máy bay trong đó có 1 máy bay B52 và 2 máy bay F.111 bị tan xác trên bầu trời Hà Tây. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris (01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước. Đúng một năm chín tháng sau, ngày 30/9/1974, tại Tổng hành dinh đóng trong Thành cổ Hà Nội, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Với sự chi viện hết lòng và toàn diện của quân dân Hà Nội và miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975) đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam thống nhất.
Tháng 4/1976, Hà Nội được Quốc hội chung của cả nước quyết định là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội quyết tâm xây dựng Thủ đô “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hà Nội dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu như: phong trào bốn đổi mới trong công nghiệp, áp dụng khoán trong nông nghiệp, xử lý giá, lương, tiền trong lưu thông phân phối; tập trung quy hoạch phát triển đô thị - giao thông nội đô thống nhất; cải tạo lại mạng lưới điện hạ thế và cấp nước sạch; cải thiện nhà ở, giao thông và chiếu sáng đô thị.
Các công trình lớn như sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Đuống, cầu Chương Dương, đường 6 (đoạn Hà Nội - Hà Đông) và nhiều khu nhà cao tầng ở khu Bắc Thanh Xuân, Kim Giang, Đại học Bách Khoa, tập thể Quỳnh Lôi được xây dựng và đưa vào sử dụng. Một số ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí nông nghiệp, hóa chất, chế tạo máy đã được hình thành. Ngành nông nghiệp Thủ đô áp dụng tốt các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, hình thành nhiều vùng chuyên canh rau ở các huyện Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì. Kinh tế đối ngoại bắt đầu hình thành.
Với những bước đi quan trọng đó, lần đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội đã đạt và vượt toàn diện, nhiều mục tiêu đạt và hoàn thành trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng ở mức cao, điều đáng kể là bước đầu kinh tế Thủ đô đã có tích lũy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn 1996 – 2000, thành phố đã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ then chốt. Những chủ trương và giải pháp quan trọng đó đã tạo sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện của Hà Nội, góp phần đáng kể cho việc động viên nguồn thu ngân sách Nhà nước. So với cả nước: năm 1990 thu ngân sách địa bàn Hà Nội đạt 9,2%, năm 2000 đạt 16,3%. Năm 2000, Hà Nội chiếm 3,6% về dân số và 2,8% diện tích lãnh thổ quốc gia nhưng đã đóng góp với cả nước 7,8% GDP. Đời sống nhân dân có nhiều cải thiện. Bộ mặt của Thủ đô có nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên. Một vinh dự lớn đối với Thủ đô Hà Nội, năm 1999 được tổ chức UNESCO của Liên Hợp quốc trao tặng danh hiệu vẻ vang “Thành phố vì hòa bình” và lấy làm nơi phát động “Năm quốc tế hòa bình – 2000”. Năm 2000, Hà Nội được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng.
Thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2000 – 2010), về kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Hà Nội tập trung trí tuệ đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa vững chắc doanh nghiệp Nhà nước; đổi mới công nghệ, thiết bị và mô hình quản lý; tích cực thu hút vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cấp hạ tầng đô thị. Những năm đầu của thế kỷ XXI, bộ mặt Thủ đô đổi thay nhanh chóng, Hà Nội đã mở ra 4 hướng với những khu công nghiệp hiện đại như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Chèm, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì, Cầu Bươu, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Đông Anh, Sóc Sơn…phát triển công nghiệp Hà Nội gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và công nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thực hiện thành công bước đi ban đầu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội trở thành trung tâm du lịch của cả nước, chất lượng dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao. Thủ đô Hà Nội tích cực đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa sinh thái. Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt nhiều thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển văn hóa - xã hội và con người, tạo nên sức mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Những năm đầu thế kỷ XXI, Hà Nội đổi thay từng ngày. Không gian Hà Nội được phân thành các vùng rõ nét. Khu vực trung tâm được bao quanh bằng các đường La Thành – đường Láng - Trường Chinh - Đại La - Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Khu phát triển mở rộng, được quy hoạch theo hữu ngạn và tả ngạn sông Hồng. Trong đó hữu ngạn gồm khu vực phía Nam cầu Thăng Long, dọc quốc lộ 32. Ở đây, có khu công nghiệp Cầu Diễn, khu công nghệ cao Nam Thăng Long, khu đô thị Ciputra, các khu dân cư tập trung Mai Dịch, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Tây sông Nhuệ, khu dân cư theo quốc lộ 6 và vành đai 3. Các khu công nghiệp Thượng Đình, công viên mới Mễ Trì, khu trung tâm Thể thao quốc gia, khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa, Thanh Xuân. Khu công nghiệp Xuân Mai, Định Công, Linh Đàm, Cầu Bươu, Mai Động. Khu Bắc cầu Thăng Long; khu thị trấn Gia Lâm – Sài Đồng – Đức Giang – Yên Viên; khu dọc đường quốc lộ 3.
Việc cải tạo, xây dựng Thủ đô thành một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc của một Quốc gia khoảng trên một trăm triệu dân, trong thế kỷ XXI là một yêu cầu cần thiết. Quốc hội đã có Nghị quyết số 15-2008/QH12 về mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 260/CT-TTg, ngày 4 tháng 3 năm 2008 về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau khi hợp nhất, mở rộng Hà Nội có diện tích 3.340 km2 với gần 6,5 triệu dân, 29 đơn vị huyện, quận; 577 xã, phường, thị trấn; 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao sinh sống.
Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đặt mục tiêu sau năm 2010 xây dựng Thủ đô Hà Nội hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc tương xứng với truyền thống ngàn năm văn hiến. Hướng phát triển của thành phố Hà Nội về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn - Xuân Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và các đô thị khác. Điều chỉnh xây dựng thêm các khu công nghiệp tập trung mới như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn, Thăng Long, Đông Anh, mở rộng khu công nghiệp Đức Giang, Cầu Diễn, Cầu Bươu. Các hệ thống công viên, khu cây xanh, vui chơi, giải trí, khu du lịch các công trình công cộng… được rà soát, quy hoạch, đảm bảo môi trường sống ngày càng văn minh, hiện đại.
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài của đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội coi trọng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, kết hợp hài hoà trong quy hoạch và xây dựng đô thị, phát huy cao độ truyền thống Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến, đoàn kết xây dựng Hà Nội là “Thủ đô xanh, văn hiến – văn minh và hiện đại”, phát huy tốt vai trò là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao dịch quốc tế.
II. MỘT SỐ GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA NỀN VĂN HIẾN THĂNG LONG – HÀ NỘI
1. Truyền thống yêu nước, hào khí Thăng Long – Hà Nội
Thăng Long – Hà Nội là một trong những Thủ đô lâu đời nhất trên thế giới. Trải nghìn năm, Thăng Long – Hà Nội từng bẩy lần bị giặc chiếm đóng, cả bẩy lần quân dân kinh thành đều nhất tề chiến đấu kiên cường. Trước thế mạnh hung hãn của kẻ thù, chưa đủ sức chống đỡ, quân dân ta chủ động thực hiện kế “thanh dã” rút khỏi kinh thành bảo toàn lực lượng, cho quân giặc “tạm đứng chân” ở Thăng Long một thời gian, rồi bao vây quét sạch chúng đi. Thăng Long – Hà Nội có thế “rồng cuộn, hổ ngồi”, có con người dám đánh và biết cách đánh giặc, thời bình thì thực hiện “ngụ binh ư nông”. Giặc đến, trên khắp đồng quê, làng phố người tay cầm cày, tay cầm gươm, người tay cầm bút, tay cầm súng, vừa duy trì cuộc sống, vừa chiến đấu cứu nước cứu nhà. Giặc đến, trai tráng ra trận, bạch đầu quân cũng hướng theo cờ nghĩa, thiếu niên cũng luyện võ, mài đao. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Sức mạnh lòng dân chính là nhân tố đem lại chiến thắng vẻ vang cho đất nước. Thế kỷ XI, nước lân bang chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã chủ động viết hịch “Phạt Tống lộ bố văn” gửi các chúa vùng Ung, Khâm, Liêm rồi mang đại quân tiến thẳng vào sào huyệt để tiêu diệt các kho vũ khí, lương thảo của địch, sau đó lui về lập phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt. Bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” âm vang trên dòng sông Như Nguyệt như lời hiệu triệu của núi sông, khích lệ toàn quân, toàn dân Đại Việt chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Thế kỷ XIII, ba lần quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, ba lần chúng chiếm được kinh thành Thăng Long. Nhưng lần thứ nhất quân dân Đại Việt cho 3 vạn quân Nguyên - Mông “ngủ trọ” trên đất nước ta mười một ngày; lần thứ hai, 50 vạn quân của Thoát Hoan và 10 vạn quân của Toa Đô “ngủ trọ” hơn ba tháng; lần thứ ba, quân dân Đại Việt cho 30 vạn quân Nguyên – Mông “ngủ trọ” 32 ngày, sau đó tổng phản công quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Hào khí Thăng Long, in đậm trong bài “Hịch tướng sĩ” bất hủ của Trần Hưng Đạo. Thế kỷ XV, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau mười năm nằm gai, nếm mật, Bình định vương Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trãi đã đem đại quân bao vây thành Đông Quan vừa uy hiếp quân giặc, vừa địch vận, vừa diệt viện binh, buộc quân xâm lược phải bó giáo, lên đàn thề xin rút hết quân về nước. Thế kỷ XVIII, với cuộc hành quân thần tốc, bất ngờ sáng mồng Năm Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cùng các tướng sĩ Tây Sơn dũng cảm tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng, đánh thọc sâu vào kinh thành Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi kinh thành Thăng Long, đồng thời mở ra giai đoạn hợp nhất đất nước từ Bắc đến Nam. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tấn công Hà Nội. Hai tấm gương trung dũng, lẫm liệt “sống chết với Thành Hà” của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu sống mãi với Thủ đô. Trong buổi đầu chống thực dân Pháp, hai lần quân dân Hà Nội mưu trí giết chết sĩ quan chỉ huy của quân Pháp là Gácniê và Rivie ở Cầu Giấy. Chưa thể đuổi giặc ra khỏi thành bằng vũ lực, người dân Hà Nội tìm mọi cách để gây cho quân địch ăn không ngon, ngủ không yên. Những người yêu nước ở Hà Nội đã kết giao lập hội chống thực dân Pháp. Khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thanh niên, học sinh và người dân Hà Nội không ngại hy sinh, gian khổ, một lòng theo Đảng làm cách mạng. Thời cơ đến, Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội nhạy bén phất cờ động viên nhân dân nhất tề đứng lên giành chính quyền, giành quyền làm chủ. Thắng lợi của phong trào cách mạng ở Hà Nội đã cổ vũ nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hà Nội trở thành Thủ đô của Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giặc Pháp ngoan cố quay lại xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Liên Khu Một với lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã thổi bùng hào khí Thăng Long – Hà Nội, mở đầu cho tám năm trường kỳ kháng chiến. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón mừng đoàn quân Chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô. Đế quốc Mỹ chia cắt đất nước ta, miền Nam còn kẻ thù xâm lược. Tiếng gọi non sông lại thôi thúc các chàng trai, cô gái Hà Nội tạm gác bút nghiên, lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Những người ra đi chiến đấu, in dấu chân trên khắp các chiến trường, có mặt trong các chiến dịch Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở Huế - Sài Gòn và kết thúc với sự có mặt của Trung đoàn Thăng Long cắm cờ trên dinh lũy Bộ Tổng tham mưu địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Những người ở lại vừa tăng gia sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, vừa cầm súng đối mặt với chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Dưới mưa bom rải thảm của giặc Mỹ, Hà Nội bình tĩnh, ngoan cường hiệp đồng với các quân, binh chủng lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố miền Bắc, lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập“uy thế không lực Hoa Kỳ”, buộc chúng phải ký Hiệp định Pa ri rút quân về nước.
Với tấm lòng yêu nước sắt son, bất khuất, kiên cường, mưu trí, sáng tạo nghìn năm qua người Thăng Long - Hà Nội đã thể hiện sinh động hào khí Thăng Long trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới. Hà Nội là “Thủ đô anh hùng” của dân tộc Việt Nam anh hùng; Hà Nội là “Thủ đô của phẩm giá con người”, “Thủ đô vì hòa bình”; Hà Nội nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, tỏa chiếu văn hiến Thăng Long đi khắp mọi miền của Tổ quốc, trở thành niềm tự hào chung của đất nước Việt Nam, tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người dân Thủ đô, mỗi người dân Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập vì hạnh phúc lớn của dân tộc.
2. Truyền thống nhân nghĩa, khát vọng hòa bình
Hòa bình là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Người Thăng Long – Hà Nội cũng như người dân đất Việt không bao giờ muốn chiến tranh. Lịch sử đã ghi nhận lòng khoan dung, nhân ái của nhân dân Thăng Long – Hà Nội ngay cả khi kẻ thù buộc chúng ta phải cầm gươm, cầm súng tự vệ, nhân dân ta vẫn tìm cách “vừa đánh, vừa đàm” cho kẻ thù thoát khỏi cuộc chiến tranh hao người tốn của, tìm cách cho kẻ thù đường rút danh dự.
Ở vào thời điểm nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan đạo quân tiếp viện của nhà Minh, giết chết tướng Liễu Thăng, quân và dân ta thừa cả thế và lực để tiêu diệt quân địch trong thành Đông Quan. Nhưng với lòng nhân đạo muốn tránh chết chóc cho quân sĩ cả hai bên, tránh cho kinh thành khỏi bị tàn phá và tạo sự hòa hiếu giữa hai nước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục tướng giặc. Nguyễn Trãi viết hàng chục bức thư gửi cho Vương Thông, lời lẽ trong các bức thư vừa thể hiện sự mềm mỏng, khiêm nhường vừa quyết liệt của người đang làm chủ hoàn toàn chiến trường. Vương Thông buộc phải mở cửa thành, lên đàn thề xin rút quân. Với tinh thần nhân đạo cao cả, Lê Lợi đã cấp hàng trăm thuyền, hàng nghìn ngựa, lương thực cho tù binh, hàng binh nhà Minh về nước. Câu chuyện truyền thuyết về vua Lê trả gươm thần cho Rùa vàng ở hồ Lục Thủy tiếp nối một cách tự nhiên trong dòng chảy của lịch sử. Chiến tranh kết thúc hoàn trả Thần Kiếm, đó chính là biểu trưng khát vọng hòa bình của dân tộc ta giữa lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nhân nghĩa trở thành truyền thống của dân tộc ta. Trong cuộc giao chiến kẻ địch giơ tay đầu hàng đều được nhân dân ta khoan hồng, đối xử nhân đạo. Chiến tranh kết thúc, nhân dân ta trải thảm cho tù binh, hàng binh về nước an toàn. Hài cốt lính địch bỏ xác trên đất Việt cũng được Nhà nước ta cho tìm kiếm trao trả thân nhân của họ. Nhân dân Thăng Long ngoài việc chôn cất lập đàn chẩn tế chu đáo, còn tu sửa, dựng chùa (chùa Bộc) làm nơi quy y cho vong linh binh sĩ của địch. Hận thù nên cởi, không nên buộc cũng là một triết lý nhân sinh của người Việt. Khắc ghi lịch sử, xóa bỏ hận thù, không quên quá khứ, hướng tới tương lai, đó là truyền thống văn hiến, anh hùng Thăng Long – Hà Nội. Với kẻ thù, người Thăng Long - Hà Nội và người dân Việt Nam luôn thể hiện lòng nhân nghĩa, với đồng bào lòng nhân ái càng được nâng cao, thể hiện bằng hành động thiết thực. Người dân Thăng Long – Hà Nội luôn hằng tâm, hằng sản, góp sức chung tay giúp đỡ mọi người trong cơn hoạn nạn. Đó là nét đẹp trong cuộc sống của người Thăng Long - Hà Nội.
3. Truyền thống tài hoa - trí tuệ Thăng Long - Hà Nội là đất nghìn năm văn hiến, là trung tâm tiêu biểu cho nhiều kỷ nguyên văn minh của dân tộc ta, như: kỷ nguyên văn minh sông Hồng, kỷ nguyên văn minh Đại Việt, kỷ nguyên văn minh Việt Nam.
Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ tinh hoa văn hóa – nghệ thuật, hội tụ tri thức. Trí tuệ của cả dân tộc hun đúc cho Thăng Long – Hà Nội và cũng từ đây trí tuệ Thăng Long – Hà Nội tỏa chiếu ra mọi miền của đất nước nâng cao tầm trí tuệ của dân tộc. Thăng Long – Hà Nội là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, là nơi để các danh nhân, nghệ nhân phát huy tinh hoa. Năm 1070, Thăng Long có Văn Miếu. Năm 1076, Quốc Tử Giám, nhà Thái học - trường đại học đầu tiên của nước ta được xây dựng, lò luyện “nguyên khí Quốc gia” qua 124 khoa thi đã đào tạo 2.248 tiến sĩ, tên tuổi được vinh danh trên bia đá ở Văn Miếu và sử sách. Thăng Long còn có Giảng Võ Đường, nhà Võ học, đào tạo hàng trăm cống sĩ, võ tướng cho quân đội. Kinh đô Thăng Long là nơi rèn luyện, đào tạo, sản sinh ra:
“Văn quan cầm bút an thiên hạ.
Võ tướng đề đao định thái bình”.
Nền giáo dục Thăng Long – Hà Nội còn lưu danh nhiều nhà giáo tâm huyết với nghề đã tạo nên bao học trò thành danh cho đất nước, như: Chu Văn An, Bùi Xương Trạch, Phù Thúc Hoành, Lê Đức Mao, Đoàn Lệnh Khương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Án, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan, Nguyễn Quý Đức, Lương Văn Can…. Noi gương Chu Văn An “người thày của muôn đời”, nhiều nhà giáo đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp trồng người, trung thực với nghề, cam sống hàn vi, không ham danh vọng, bổng lộc. Khẩu ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” còn để lại tới hôm nay. Thăng Long – Hà Nội còn tiêu biểu cho nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nơi hội tụ khách văn chương cả nước. Một thi xã Tao Đàn đời Hồng Đức làm sáng cả mảng văn học thời Lê. Một văn phái Ngô Thì với bao tác phẩm văn chương đồ sộ, khiến trăm họ ngưỡng mộ. Bên những văn nhân, thi nhân người Hà Nội, như: Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Lý Văn Phức, bà huyện Thanh Quan…còn có những ngôi sao gốc tứ trấn, có người sinh ở Hà Nội, như: Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương..., có người xứ Đoài, xứ Đông, xứ Bắc, xứ Nam, như: Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Thân Nhân Trung, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Đình Hổ, Lê Quý Đôn…sự nghiệp, công danh được lập trên đất Thăng Long.
Thăng Long – Hà Nội là nơi đào tạo trí thức lớn nhất cả nước, trí tuệ, nhân cách của trí thức Hà Nội tỏa sáng. Các sĩ tử học đạo Thánh hiền, các “tao nhân, mặc khách” bầu rượu, túi thơ” trọng nghĩa, trọng tài lập nghiệp thành danh trên đất đế đô đều có chung phong cách đối nhân, xử thế lịch duyệt, tao nhã. Chí sĩ Hà Thành yêu nước, trọng nghĩa, trọng tài, nhân ái bao dung trong cả vinh lẫn suy; trước tiền bạc, cám dỗ luôn biết kiềm chế không để mất nhân cách; trước hiểm nguy luôn bình tĩnh, sáng suốt tìm đối sách hợp lý; trước kẻ thù, trước cái chết luôn cứng rắn, không run sợ, giữ thần thái, khí tiết. Bên cạnh những nhà chính trị cách mạng, nhà quân sự, nhà giáo, nhà văn Thăng Long – Hà Nội còn có những nghệ nhân, những người thợ tài hoa đã làm sáng danh đất Kẻ Chợ. Nghệ nhân và người thợ đến kinh kỳ đem theo nghề chuyên từ quê nhà, nhu cầu và đòi hỏi khắt khe của khách hàng kinh đô đã làm cho họ có điều kiện rèn luyện tay nghề. Thăng Long - Hà Nội vùng đất trăm nghề, nghề nào cũng khéo. Tên nghề ở Thăng Long - Hà Nội thường gắn với tên làng, tiếng thơm của nhiều làng nghề trên đất Thăng Long – Hà Nội nức tiếng gần xa, như: đúc đồng Ngũ Xã, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, the La Cả, lụa trắng Cổ Đô, nón làng Chuông, thêu Quất Động, khảm xà cừ Chuôn Tre....Đất lành, mới đầu chỉ là những tốp thợ ra trú ngụ làm theo thời vụ, dần dà họ kéo theo người trong dòng tộc, người cùng làng ra ở hẳn Thăng Long – Hà Nội. Họ lập nên phường hội, lập phố hàng... vừa sản xuất, vừa kinh doanh góp phần làm thay đổi khu vực “thị”. Họ trở thành người Thăng Long – Hà Nội, cuộc sống gắn bó với thăng trầm của vùng đất này. Sinh cơ lập nghiệp, an cư ở đất kinh kỳ nhưng tâm hồn họ vẫn luôn hướng về quê hương, gốc tổ. Nhiều dòng tộc, phường nghề đã lập đền miếu thờ vọng tổ nghề, thành hoàng làng trên đất Thăng Long – Hà Nội, các di sản quý báu đó được người Hà Nội trân trọng, tự hào gìn giữ và phát huy.
Đất Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến đã góp phần tạo nên nhân tài và các thế hệ nhân tài đã bồi đắp trở lại cho trái tim đất nước ngày càng xứng đáng tiêu biểu cho nền văn hiến Việt Nam. Không chỉ hội tụ, mà còn tỏa sáng. Theo tiếng gọi của non sông, người Thăng Long - Hà Nội sẵn sàng gác bút nghiên đi bảo vệ biên cương, sẵn sàng đi mở đất, xây dựng quê hương mới, đáp ứng yêu cầu của mọi miền Tổ quốc. Tuổi trẻ Thủ đô hôm nay luôn nêu gương “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, họ cũng phấn đấu hết mình để không hổ thẹn là người Thăng Long – Hà Nội, không hổ thẹn với cha ông:
4. Phẩm chất thanh lịch – văn minh Thăng Long - Hà Nội
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An”
Tràng An là chỉ kinh đô Thăng Long – Hà Nội. “Thanh lịch” hàm nghĩa rộng của phong cách sống đẹp từ trong nhà ra xã hội, từ ăn nói, ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn học, ăn chơi, đi đứng cho đến phép giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, môi trường. “Thanh” có nghĩa là thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn; thanh liêm với của cải xã hội; thanh bạch – thanh đạm trong cuộc sống đời thường; thanh nhã trong cử chỉ, hành động. “Lịch” phải chăng là con người cần có sự lịch lãm, lịch thiệp trong giao tiếp, ứng xử; lịch duyệt – hiểu biết rộng. Nếu như “thanh” muốn có phải học hỏi, tu dưỡng rèn luyện, thì ở “lịch” lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đem đến. Có đủ “thanh lịch” mới trọn vẹn.
Thăng Long – Hà Nội là nơi tụ hội người dân của mọi miền Tổ quốc, là điểm đến và sinh cơ lập nghiệp của một số kiều dân nước ngoài. Đến kinh đô, họ mang theo tinh hoa quê hương đến góp cho Thăng Long - Hà Nội, nhưng cũng đồng thời mang theo tập quán quê cũ. Kinh đô Thăng Long - Hà Nội như cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những cái đẹp nhỏ nhất của bốn phương để làm giàu cho mình, đồng thời cũng loại bỏ những gì không thích hợp để rồi ổn định, định hình, định tính, định vị cái thanh lịch cũng như tán phát văn hóa Thăng Long đi muôn nơi. Nét đặc trưng văn hóa Thăng Long là sự hòa hợp nếp sống giữa người dân Hà Thành với “người tứ chiếng”, giữa “người đồng văn, đồng chủng” với người nước ngoài. Bên cạnh những nét riêng trong các yếu tố nhân chủng, thể chất, ngôn ngữ, người Hà Nội có một số tư chất, nội tâm, đường ăn nết ở tài hoa, thanh lịch, kiên cường. Cái tư chất người Hà Nội thời phong kiến là giữ được cái căn tính của nền văn minh lúa nước. Cái chất của người Hà Nội thời Pháp thuộc là tài hoa và khí phách cách mạng anh hùng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội phát huy tinh thần năng động, sáng tạo đã được hun đúc qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Người Thăng Long - Hà Nội tự hào về cái “thanh lịch” của mình. Cái thanh lịch của Thăng Long - Hà Nội thể hiện trong nhiều mặt. Trước hết là thể hiện ở lời nói. Tiếng nói của người Thủ đô chuẩn xác cao, thanh âm mẫu mực. Người Thăng Long - Hà Nội vận dụng từ ngữ khéo léo, nhã nhặn, tế nhị. Trong giao tiếp, biết nhún mình, tôn trọng người, mềm mỏng mà không thớ lợ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà không làm cao. Người thợ thủ công trên đất Thăng Long – Hà Nội giữ cái tố chất tương trợ, phường hội giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực lẽ phải, bênh vực “kẻ yếu”. Người nông dân giữ cái thuần phác, cần cù “biết nhịn”, “biết nể”. Nho sĩ, hàn sĩ giữ cái cốt cách của người học đạo thánh hiền lời nói văn vẻ, dễ nghe, còn một tấm áo lụa, ra đường còn nho nhã, còn một đồng trong túi là không để mâm cơm đãi khách phải ngọ ngằn.
Ngạn ngữ có câu “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô đồng thời cũng tiêu biểu cho xứ Bắc. Ăn, mặc của người Thăng Long - Hà Nội cũng toát nên chất thanh lịch. Người Thăng Long - Hà Nội rất sành trong ăn uống, nâng cách ăn uống, chế biến món ăn thành nghệ thuật ẩm thực. Món ăn chế biến, mặn, ngọt, chua, cay vừa độ, gia vị đầy đủ; nước chấm, nước canh khéo chế. Bữa ăn ngon từ cách bày đĩa, xếp mâm, lên cỗ. Nét văn hoá bộc lộ trong ăn uống cũng tinh tế, phong phú. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Vào mâm cơm người Thăng Long – Hà Nội trọng người già, quý trẻ em, nhường nhịn món ăn ngon, gắp tiếp trước cho khách. Ăn uống từ tốn, nhai nuốt thong thả. Ăn để thòm thèm, nhớ mãi. Người Thăng Long – Hà Nội lịch sự trong cách mặc. Trang phục, trang sức ưa sự gọn gàng, trang nhã, tề chỉnh, cách tân tinh tế, đủ độ lộng lẫy, kiêu sa. Người Thăng Long - Hà Nội thích “diện”, thích đổi “mốt” làm đẹp phố phường. Cái “diện” của con người vùng đất này cũng mang “tư chất” kín đáo, tế nhị, không cầu kỳ, biết nâng “cái đẹp” đồng hành với “cái nết”. Người Thăng Long - Hà Nội xưa ra đường là mặc áo dài, khăn nón, giày guốc đầy đủ. Khách đến chơi nhà, chủ nhà giữ lễ “tôn trọng mình, tôn trọng khách”, “ăn vận” quần áo gọn gàng, tươm tất rồi mới tiếp khách. Con gái Thăng Long - Hà Nội giữ “công, dung, ngôn, hạnh”,giữ đủ nét e lệ, dịu dàng, giữ gìn ý tứ từ dáng đi, nụ cười, ánh mắt, đồ trang sức vừa đủ, ít người đeo vàng, ngọc đầy cổ, đầy tay. Trong giao tiếp, ứng xử người Hà Nội không chỉ giữ gìn thuần phong mỹ tục truyền thống mà còn tiếp thu tinh hoa văn minh, hiện đại của bốn phương. Trước đây người Hà Nội đón tiếp khách quý là chắp tay vái chào, nay bắt tay cởi mở. Từ chỗ “nam nữ thụ thụ bất thân” đã đi tới bình đẳng giới, xây dựng được nét đẹp tôn trọng người già, nhường nhịn phụ nữ, quý mến trẻ thơ, giúp đỡ người già yếu, khuyết tật, lịch sự thân thiện với người mới đến, người nước ngoài. Gặp vướng mắc, va chạm thì ứng xử ôn hoà, không đối đầu, bạo lực, luôn mong muốn giải quyết êm đẹp, phục thiện.
Gia đình là cái nôi nuôi lớn tâm hồn con người. Gia đình là tế bào quyết định chất lượng xã hội. Xây dựng và bảo toàn mái ấm gia đình là điều kiện cơ bản cho hôm nay và ngày mai đi lên của đất nước. Muốn thế phải phải giữ được “nếp nhà”. Chữ “hiếu” không cổ hủ mà thích nghi với hoàn cảnh mới. Trong gia đình, người Thăng Long - Hà Nội coi trọng giữ gìn nề nếp, gia phong. Dạy bảo con cháu, người Thăng Long - Hà Nội lấy chữ “hiếu” với ông bà, cha mẹ làm đầu, chữ “hiền thảo” với dâu rể, chữ “thành đạt” với con cháu. Ông bà, cha mẹ lấy cái mẫu mực, làm gương cho con cháu noi theo. Cuộc sống phố phường sôi động, nhưng người Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp của sinh hoạt tâm linh và cộng đồng đầy tính thiện như: hái lộc đầu xuân, đi lễ đền chùa cầu lành, cầu mát, cầu quốc thái, dân an, thắp hương thờ cúng tổ tiên, cúng giao thừa, năm mới xông đất chúc tụng nhau, đến Văn Miếu xin chữ Thánh hiền đầu xuân. Các cụ ông, các tài tử, văn nhân có cái thú uống trà, “nuôi cá dưỡng tâm, nuôi chim dưỡng tính”, “nuôi lan tích đức”, dựng hòn non bộ, trồng cây cảnh để cân bằng phong thủy. Với môi trường thiên nhiên, môi trường đô thị, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội đang xây dựng được nét ứng xử đẹp phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Nhân cách của người Thăng Long - Hà Nội hôm nay được xây dựng trên tổng hoà các giá trị văn hiến truyền thống và hiện đại. Nâng cao phẩm chất trí tuệ, tài năng, tâm hồn, tình cảm, lý tưởng và hành động mang bản sắc Thăng Long – Hà Nội, xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, hiện đại xứng tầm với thành phố nghìn năm tuổi là vinh dự và trách nhiệm của mỗi người dân cả nước nói chung và người dân Hà Nội nói riêng./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG