Tháng 8-1967, khởi đầu từ đề xuất của Đại sứ A-vi-đơ Pác-đô (Arvid Pardo), Trưởng phái đoàn Man-ta tại Liên hợp quốc, ý tưởng về một điều ước quốc tế điều chỉnh đáy biển và đại dương, phục vụ lợi ích chung của nhân loại đã ra đời. Năm 1973, Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ ba chính thức được tổ chức với sứ mệnh đàm phán một điều ước quốc tế toàn diện về các lĩnh vực quản lý biển và đại dương. Trải qua 9 năm đàm phán, dự thảo UNCLOS năm 1982 đã được thông qua vào ngày 30-4-1982 với 130 phiếu thuận (4 phiếu chống và 17 phiếu trắng)(1). Ngay vào ngày mở ký chính thức (ngày 10-12-1982), 117 quốc gia đã tham gia ký kết Công ước. Ngày 16-11-1994, một năm kể từ khi có đủ 60 quốc gia thành viên phê chuẩn, UNCLOS năm 1982 đã chính thức có hiệu lực. Đến nay, UNCLOS năm 1982 đã có 168 quốc gia thành viên phê chuẩn(2).
Trước UNCLOS năm 1982, năm 1958, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị Luật Biển lần thứ nhất và đạt được khuôn khổ pháp lý quốc tế đầu tiên điều chỉnh các vấn đề về biển và đại dương thông qua bốn Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, thềm lục địa, biển cả, đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả và một Nghị định thư về giải quyết tranh chấp(3). Đây là một bước tiến lớn nhằm thiết lập một trật tự pháp lý quốc tế đầu tiên trên biển, điều hòa các lợi ích khác biệt giữa các quốc gia ven biển và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, các Công ước năm 1958 bộc lộ nhiều điểm hạn chế.
Thứ nhất, việc xác định ranh giới các vùng biển chưa hoàn tất do các quốc gia chưa thống nhất được về chiều rộng của lãnh hải và vùng đánh cá. Thứ hai, việc phân chia quyền và lợi ích trên biển thiên về bảo vệ lợi ích của các quốc gia phát triển, bỏ qua lợi ích của các quốc gia đang phát triển và gặp bất lợi về mặt địa lý(4). Thứ ba, phần đáy biển quốc tế nằm ngoài giới hạn thềm lục địa của các quốc gia ven biển hoàn toàn bị bỏ ngỏ, chưa được điều chỉnh bởi các quy định pháp lý quốc tế. Thứ tư, nghị định thư về giải quyết tranh chấp bó hẹp lựa chọn bắt buộc giải quyết thông qua Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) nên không nhận được sự ủng hộ rộng rãi(5). Thứ năm, mặc dù đã lường trước được vấn đề về suy thoái và ô nhiễm môi trường biển, việc chỉ quy định về bảo tồn tài nguyên sinh vật biển tại biển cả là chưa đầy đủ cả về các nguồn gây ô nhiễm, phạm vi xảy ra ô nhiễm và các biện pháp chế tài để xử lý vi phạm về ô nhiễm môi trường biển.
UNCLOS năm 1982 đã khắc phục những điểm hạn chế của các Công ước năm 1958 và tạo dựng một khuôn khổ pháp lý công bằng, hài hòa lợi ích của các nhóm nước khác nhau như giữa những nước có biển và không có biển, hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý giữa nước phát triển và các nước đang phát triển, kém phát triển.
Cụ thể, lần đầu tiên UNCLOS năm 1982 đã hoàn chỉnh các quy định về xác định ranh giới các vùng biển từ nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, biển cả và Vùng (đáy biển quốc tế). Đặc biệt, chế độ vùng đặc quyền kinh tế ra đời là kết quả của việc bảo vệ các đặc quyền về kinh tế của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia mới giành được độc lập trong phong trào giải phóng dân tộc vào những năm 60 của thế kỷ XX. Đây là chế định pháp lý lần đầu tiên được quy định có tính tới đặc thù phân bổ tự nhiên của các tài nguyên sinh vật biển trong phạm vi 200 hải lý(6) và thiết lập công bằng cho tất cả quốc gia, loại trừ các quy định dựa trên quyền đánh bắt cá truyền thống, lịch sử do các quốc gia có điều kiện khoa học - kỹ thuật phát triển thiết lập kể từ trước khi Công ước ra đời.
Với thềm lục địa, UNCLOS năm 1982 quy định các tiêu chí xác định ranh giới thềm lục địa dựa trên các tiêu chí khách quan về mặt địa lý trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đất thống trị biển. Theo đó, thềm lục địa là một khái niệm địa chất, là phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của các quốc gia ven biển. Vì vậy, tối thiểu các quốc gia có thể xác định chiều rộng vùng thềm lục địa pháp lý là 200 hải lý kể từ đường cơ sở. Các quốc gia có thềm lục địa tự nhiên rộng hơn 200 hải lý được phép xác định thềm lục địa pháp lý mở rộng(7). Tuy nhiên, để bảo đảm yếu tố công bằng, khách quan, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS)(8) của Liên hợp quốc sẽ có thẩm quyền xem xét phương pháp xác định thềm lục địa mở rộng của các quốc gia ven biển và chỉ những ranh giới thềm lục địa mở rộng nào được xác định phù hợp với khuyến nghị của (CLCS) mới có giá trị ràng buộc và nhận được sự công nhận từ các quốc gia khác.
Quyền lợi của các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý cũng được tính tới khi một loạt quy định về quá cảnh, khai thác lượng đánh bắt cá dư được quy định trong quy chế về vùng đặc quyền kinh tế(9). Bên cạnh đó, đặc thù của các quốc gia quần đảo cũng lần đầu tiên được xem xét và pháp điển hóa thành quy chế pháp lý của quốc gia quần đảo(10).
Đặc biệt, bên cạnh việc kế thừa quy định tự do biển cả, UNCLOS năm 1982 lần đầu tiên xây dựng quy chế pháp lý về Vùng với đặc trưng là di sản chung của nhân loại. Trong đó, Cơ quan quyền lực đáy đại dương (ISA) được thành lập để xây dựng quy chế về khai thác tài nguyên tại Vùng và phân bổ lợi ích công bằng tới các quốc gia thành viên(11). Hiệp định về thực hiện phần XI cũng đã được ký kết vào năm 1994 để bổ sung các quy định cụ thể về quản lý và khai thác Vùng cho UNCLOS năm 1982.
Cơ chế hòa bình giải quyết các tranh chấp biển
Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Theo đó, tranh chấp phải được giải quyết thông qua các biện pháp như đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án và các tổ chức khu vực và quốc tế hoặc bất kỳ biện pháp hòa bình nào khác do các bên tự lựa chọn(12). UNCLOS năm 1982 đã tái khẳng định tinh thần của nguyên tắc này, đồng thời khéo léo kết hợp các biện pháp hòa bình để tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với đặc thù của các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước.
Theo đó, UNCLOS năm 1982 dành ưu tiên cho những thỏa thuận về các biện pháp giải quyết tranh chấp mà các bên đã thống nhất từ trước. Nếu không tồn tại thỏa thuận sẵn có về biện pháp giải quyết tranh chấp, UNCLOS năm 1982 yêu cầu các bên đàm phán trực tiếp thông qua quy định trao đổi quan điểm là một biện pháp bắt buộc. Bên cạnh đó, UNCLOS năm 1982 khuyến khích các bên sử dụng biện pháp hòa giải như là một lựa chọn tự nguyện nhằm tạo điều kiện cho đàm phán trực tiếp.
Tuy nhiên, trao đổi quan điểm bắt buộc không có giá trị vô thời hạn. Công ước chỉ yêu cầu các bên có nghĩa vụ trao đổi quan điểm trong một khoảng thời gian hợp lý(13). Quá thời hạn đó, nếu các bên không đạt được giải pháp để giải quyết tranh chấp, các cơ quan tài phán sẽ là lựa chọn tiếp theo. Để có thêm lựa chọn linh hoạt, UNCLOS năm 1982 quy định các bên có thể tuyên bố lựa chọn một trong bốn cơ quan tài phán, bao gồm: Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), Tòa Luật Biển quốc tế (ITLOS), Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII và Trọng tài thành lập theo Phụ lục VIII(14). Trong đó, ngoài ICJ là tòa án được thành lập bên cạnh Liên hợp quốc từ năm 1945, các thể chế còn lại đều được thành lập mới theo quy định của UNCLOS năm 1982. Điểm đặc biệt là, UNCLOS năm 1982 tạo ra một cơ chế mặc định mang tính chất tự động. Theo đó, nếu các bên không đưa ra tuyên bố lựa chọn cơ quan tài phán, hoặc lựa chọn các cơ quan khác nhau thì Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII là cơ quan có thẩm quyền bắt buộc để giải quyết tranh chấp.
Quy định cơ chế mặc định này vừa bảo đảm sự linh hoạt trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa bảo đảm hiệu quả khi một bên có thể sử dụng quyền đơn phương khởi kiện Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII để giải quyết các tranh chấp với một quốc gia thành viên khác về những bất đồng liên quan đến việc giải thích và thực thi UNCLOS năm 1982. Quyền đơn phương khởi kiện được quy định trên cơ sở UNCLOS năm 1982 là một Công ước cả gói, các quốc gia thành viên khi phê chuẩn Công ước không được phép bảo lưu bất kỳ điều khoản nào, và do vậy, đã tự nguyện ràng buộc với thẩm quyền bắt buộc của cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại Phần XV của Công ước.
Tuy nhiên, để tạo thêm sự linh hoạt cho cơ chế giải quyết tranh chấp, và cũng là để khắc phục hạn chế về quy định cứng của Nghị định Giải quyết tranh chấp năm 1958 (dẫn tới việc nhiều quốc gia không phê chuẩn), UNCLOS năm 1982 quy định thêm những ngoại lệ và hạn chế. Theo đó, những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước về việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển đương nhiên thuộc phạm vi loại trừ khỏi các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của các cơ quan tài phán(15). Các tranh chấp liên quan đến phân định biên giới, ranh giới biển, hoạt động quân sự của tàu thuyền, hoặc đang được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc xem xét cũng thuộc phạm vi loại trừ theo lựa chọn khỏi các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của các cơ quan tài phán(16). Theo đó, nếu quốc gia thành viên ra tuyên bố loại trừ ba loại tranh chấp được lựa chọn này, các quốc gia khác không được phép khởi kiện các tranh chấp này ra các cơ quan tài phán theo quy định của Công ước.
Mặc dù được loại trừ đương nhiên hoặc theo lựa chọn một số tranh chấp khỏi phạm vi giải quyết tranh chấp bắt buộc thông qua các cơ quan tài phán, các quốc gia thành viên vẫn có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình khác, trong đó có nghĩa vụ trao đổi quan điểm. Đặc biệt, UNCLOS năm 1982 quy định với những tranh chấp được loại trừ này, một bên có thể đơn phương yêu cầu áp dụng biện pháp hòa giải bắt buộc để đưa ra khuyến nghị về các biện pháp giải quyết tranh chấp.
Có thể nói, với những quy định linh hoạt, sáng tạo, UNCLOS năm 1982 đã tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp với nhiều tầng nấc, vừa bảo đảm sự linh hoạt, quyền tự do lựa chọn của các bên về biện pháp, cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa tạo điều kiện thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp của các bên. Đặc biệt, cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS năm 1982 là cơ chế đầu tiên tiên phong quy định quyền đơn phương khởi kiện của quốc gia thành viên ra một cơ quan tài phán quốc tế. Nhờ quy định này, nhiều tranh chấp giữa các quốc gia trên biển đã được giải quyết và thu hẹp bất đồng giữa các quốc gia. Kể từ khi UNCLOS năm 1982 ra đời, 29 tranh chấp biển đã được giải quyết thông qua ICJ, 18 tranh chấp đã được giải quyết thông qua ITLOS và 11 tranh chấp đã được giải quyết thông qua Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII.
Giá trị bền vững, hướng tới tương lai
Không chỉ tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện, phổ quát, một cơ chế giải quyết tranh chấp sáng tạo, thúc đẩy hòa bình, ổn định trên biển, UNCLOS năm 1982 còn có những quy định tiến bộ, gắn liền với định hướng quản trị biển và đại dương bền vững, hướng tới tương lai. Nghĩa vụ hợp tác là tâm điểm của Công ước khi được đề cập tới 60 lần tại 14 điều khoản khác nhau trong Công ước, trong đó có quy định về hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ, gìn giữ môi trường biển, hợp tác nghiên cứu khoa học biển, hợp tác chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hợp tác tại vùng biển nửa kín, hợp tác trong trấn áp tội phạm trên biển...
Trong lĩnh vực bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, UNCLOS năm 1982 quy định xuyên suốt, quy trách nhiệm nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế; đồng thời, xác định nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia trong phạm vi biển cả. Đặc biệt Phần XII của UNCLOS năm 1982 được dành riêng để quy định về bảo vệ và bảo tồn môi trường biển với 11 mục.
Ngoài mục 1 quy định về nghĩa vụ chung áp dụng với các quốc gia, Phần XII của UNCLOS năm 1982 có các quy định cụ thể về hợp tác ở cấp độ khu vực và quốc tế, trợ giúp kỹ thuật cho các quốc gia đang phát triển, đánh giá tác động của các nguồn ô nhiễm môi trường biển. Trong đó, để có thể xây dựng các quy định phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển ở cấp độ quốc gia và quốc tế và xác định trách nhiệm với các hành vi gây ô nhiễm môi trường biển, UNCLOS năm 1982 phân loại nguyên nhân gây ô nhiễm từ nguồn đất liền, từ các hoạt động khai thác tại Vùng, từ tàu thuyền, từ hoạt động nhận chìm, đổ thải ra biển, từ không khí và khí quyển. Bên cạnh đó, UNCLOS năm 1982 cũng có những quy định đặc thù cho các vùng biển bị băng bao phủ và xác định mối quan hệ với các điều ước quốc tế chuyên ngành trong lĩnh vực bảo vệ môi trường khác.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển, UNCLOS năm 1982 nhấn mạnh tới sự bảo đảm hài hòa giữa một bên là quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển và một bên là lợi ích của cộng đồng. Theo đó, Công ước quy định các quốc gia và tổ chức quốc tế phổ biến các thông tin và kiến thức là kết quả của công tác nghiên cứu khoa học biển. Đồng thời, Công ước cũng yêu cầu các quốc gia, tổ chức quốc tế hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa học và cho việc chuyển giao các kiến thức thu được từ công tác nghiên cứu khoa học biển, nhất là cho các quốc gia đang phát triển cũng như cho việc tăng cường xây dựng năng lực cho các quốc gia đang phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển(17).
Đặc biệt, nhận thức được tầm quan trọng của khoa học - kỹ thuật, đồng thời, khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa các quốc gia trong lĩnh vực này, UNCLOS năm 1982 dành riêng Phần XIV để quy định về vấn đề chuyển giao kỹ thuật. Theo đó, Công ước xác định nguyên tắc các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức quốc tế nhằm tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, chuyển giao khoa học - kỹ thuật biển theo các thể thức, điều kiện công bằng và hợp lý. Công ước đặc biệt chú trọng đến nhu cầu được hưởng hỗ trợ kỹ thuật của các quốc gia đang phát triển, quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý, trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên của biển, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển và các hoạt động khác nhằm tiến hành trong môi trường biển phù hợp để thúc đẩy tiến bộ xã hội và kinh tế của các quốc gia đang phát triển. Công ước cũng khuyến khích việc thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật biển của quốc gia và khu vực để động viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa học biển nhằm sử dụng và gìn giữ các tài nguyên biển cho mục đích phát triển bền vững.
Để hướng tới các mục tiêu bảo tồn các nguồn gen biển quý nhằm phục vụ cho sự phát triển bền vững trong tương lai, hiện nay, các nước thành viên của Công ước đang tham gia quá trình đàm phán, ký kết một hiệp định về đa dạng sinh học tại vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia(18). Đồng thời, cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và các vấn đề mới nảy sinh, như tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tác động của dịch bệnh sẽ tiếp tục được các nước thành viên thảo luận để bổ sung cho các quy định của Công ước.
Việt Nam - thành viên có trách nhiệmcủa UNCLOS năm 1982
Ngay sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của Liên hợp quốc; đồng thời, ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa vào ngày 12-5-1977(19). Mặc dù được công bố từ năm 1977, nhưng nội dung của Tuyên bố này hoàn toàn phù hợp với các quy định của UNCLOS được các quốc gia ký kết vào năm 1982. Năm 1994, Việt Nam là quốc gia thứ 63 phê chuẩn UNCLOS năm 1982, trước khi Công ước chính thức có hiệu lực vào tháng 12-1994. Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn UNCLOS năm 1982 đã khẳng định rõ, bằng việc phê chuẩn UNCLOS năm 1982, Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển(20).
Sau khi trở thành thành viên chính thức của UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong nước để cụ thể hóa các quy định của Công ước trong nhiều lĩnh vực, như biên giới lãnh thổ, hàng hải, thủy sản, dầu khí, bảo vệ môi trường biển và hải đảo... Đặc biệt, năm 2012, Việt Nam đã ban hành Luật Biển Việt Nam với hầu hết các nội dung tương thích với UNCLOS năm 1982.
Thực hiện nghĩa vụ quy định tại UNCLOS năm 1982, năm 2009, sau 15 năm trở thành thành viên của Công ước, Việt Nam đã đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng khu vực phía Bắc lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc(21). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng hợp tác cùng Ma-lai-xi-a đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng chung tại phía Nam Biển Đông, nơi hai nước có thềm lục địa chồng lấn, chưa phân định(22).
Với tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã phân định các vùng biển chồng lấn thành công với nhiều nước láng giềng. Song song với phân định biển, Việt Nam và Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận về hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ, qua đó xác lập khu vực hợp tác đánh bắt cá chung và tuần tra chung để ngăn ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm trên biển(23).
Cho tới nay, các hiệp định phân định biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng được thực hiện đúng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, góp phần thúc đẩy quan hệ hòa bình, ổn định và phát triển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng. Bên cạnh phân định biển, Việt Nam cũng đã đạt được thỏa thuận với Cam-pu-chia về vùng nước lịch sử tại khu vực biển chưa phân định giữa hai nước. Đồng thời, cùng với Ma-lai-xi-a, thiết lập khu vực khai thác dầu khí chung tại khu vực thềm lục địa chồng lấn chưa được phân định giữa hai nước.
Tại các khu vực biển còn chống lấn, chưa được phân định, với các nước láng giềng như khu vực chồng lấn với Cam-pu-chia, khu vực chồng lấn ba bên giữa Việt Nam, Ma-lai-xi-a và Thái Lan, hoặc khu vực có khả năng chồng lấn giữa Việt Nam và Bru-nây, cũng như giữa Việt Nam và Phi-líp-pin(24), Việt Nam luôn tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, Việt Nam ủng hộ việc duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Đặc biệt với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một mặt, Việt Nam khẳng định có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và pháp lý để minh chứng cho chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này; mặt khác, Việt Nam xác định cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của UNCLOS năm 1982. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời đang tích cực cùng Trung Quốc và các quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Thực hiện tinh thần này, năm 2021, Việt Nam đã cùng 11 nước sáng lập Nhóm bạn bè của UNCLOS năm 1982 nhằm tạo ra một diễn đàn cởi mở, thân thiện để các nước cùng trao đổi các vấn đề về biển và đại dương, qua đó đóng góp chung vào việc thực hiện đầy đủ UNCLOS(26). Hiện nay, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn đa phương, thảo luận về các vấn đề mới nổi lên của biển và đại dương như bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, ứng phó với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu với biển và đại dương, quản trị các hoạt động trên biển trong điều kiện có các thách thức an ninh phi truyền thống mới, như đại dịch COVID-19, nạn buôn bán người, di cư trái phép...
Thường được coi là một bản “Hiến pháp về đại dương”, việc ký kết UNCLOS cách đây 40 năm là một dấu mốc lịch sử trong quá trình phát triển của luật quốc tế, tạo ra một khung pháp lý toàn diện giúp quản trị biển hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia và sự phát triển bền vững biển và đại dương. Liên hợp quốc - tổ chức đa phương quy tụ nhiều thành viên nhất trên thế giới hiện nay - đã nhiều lần công nhận vai trò của UNCLOS năm 1982 và nhấn mạnh cần tuân thủ Công ước trong mọi hoạt động trên biển và đại dương(27). ASEAN trong các tuyên bố cấp cao của mình cũng luôn nhấn mạnh giá trị phổ quát, tầm quan trọng của việc thực thi UNCLOS năm 1982 để duy trì hòa bình, ổn định và quản lý, giải quyết hòa bình các tranh chấp biển trong khu vực. Là một quốc gia ven biển, một thành viên tích cực và có trách nhiệm, Việt Nam luôn khẳng định UNCLOS năm 1982 là một trong những quy định của luật pháp quốc tế đóng vai trò then chốt trong việc quản lý, phát triển kinh tế biển quốc gia; đồng thời, là cơ sở để Việt Nam giải quyết hòa bình các tranh chấp biển với các quốc gia láng giềng, hướng tới việc quản trị Biển Đông hòa bình, bền vững./.
----------------------------
(1) Gabriele Goettsche-Wanli: “The United Nations Convention on the Law of the Sea: Multilateral Diplomacy at Work” (Tạm dịch: Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển: Ngoại giao đa phương tại Hội nghị), No. 3, Vol. LI, United Nations, tháng 12-2014, https://www.un.org/en/chronicle/article/united-nations-convention-law-sea-multilateral-diplomacy-work
(2) Xem: Danh sách các quốc gia ký kết và phê chuẩn UNCLOS năm 1982, https://www.un.org/depts/los/reference_files/UNCLOS%20Status%20table_ENG.pdf
(3) Toàn văn bốn Công ước và một Nghị định thư năm 1958 về Luật Biển, https://legal.un.org/avl/ha/gclos/gclos.html
(4) Điều 2 của Công ước thềm lục địa quy định các quốc gia có thể xác định thềm lục địa tới ranh giới theo khả năng khai thác. Đây là tiêu chí hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật, thế mạnh của các quốc gia phát triển
(5) Nghị định thư về giải quyết tranh chấp chỉ có 18 quốc gia phê chuẩn. Ngoài việc trao thẩm quyền bắt buộc cho ICJ, Nghị định thư cũng để ngỏ cho thẩm quyền của các tòa án và trọng tài khác nếu các quốc gia đạt được thỏa thuận chung. Tuy nhiên, mục tiêu cao nhất vẫn là thiết lập thẩm quyền bắt buộc của một cơ quan tài phán để giải quyết các tranh chấp biển. Xem: “Danh sách các quốc gia phê chuẩn”, https://treaties.un.org/Pages/showDetails.aspx?objid=08000002800332b0
(6) Trước khi có quy định của UNCLOS năm 1982, tại Tuyên bố Xan-ti-a-gô năm 1952, ba quốc gia khu vực Mỹ La-tinh, bao gồm: Chi-lê, Ê-cu-a-đo và Pê-ru, là những nước đầu tiên đưa ra yêu sách vùng đánh cá 200 hải lý với lập luận rằng đây thường là khu vực biển nông, nhiệt độ ấm, phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của các loài cá. Xem: S. N. Nandan: “The Exclusive Economic Zone: A Historical Perspective” (Tạm dịch: Vùng đặc quyền kinh tế: Một viễn cảnh lịch sử), https://www.fao.org/3/s5280T/s5280t0p.htm
(7) Thềm lục địa mở rộng có thể có chiều rộng đúng bằng thềm lục địa tự nhiên, hoặc bằng 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m. Chi tiết về các phương pháp xác định chiều rộng thềm lục địa pháp lý được quy định tại Điều 76 UNCLOS năm 1982
(8) Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) là một trong ba cơ quan được thành lập theo UNCLOS năm 1982 nhằm xem xét bản đệ trình ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý của các nước. Ủy ban bao gồm 21 thành viên, đại diện cho 5 khu vực địa lý
(9) Công ước dành riêng Phần X với 9 điều khoản từ Điều 124 - 132; hai điều khoản trong Quy chế của Vùng đặc quyền kinh tế (Điều 69, 70) và Điều 254 về nghiên cứu khoa học biển để quy định về quyền của các quốc gia gặp bất lợi về mặt địa lý và không có biển
(10) Quốc gia quần đảo, do đặc thù cấu tạo chỉ bởi quần đảo, nhưng bị chia cắt về mặt địa lý giữa các đảo khác nhau, nên được áp dụng quy chế riêng, quy định tại Phần IV, từ Điều 46 - 54. Theo đó, quốc gia quần đảo được áp dụng phương pháp đường cơ sở quần đảo, nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm, lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1. Ngoài ra, quốc gia quần đảo được áp dụng quy chế pháp lý đặc biệt với vùng nước quần đảo (vùng nước được bao bọc bởi đường cơ sở quần đảo)
(11) Cơ quan quyền lực đáy đại dương là tổ chức có chức năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến hành trong Vùng nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng vì mục tiêu di sản chung của nhân loại trên cơ sở Quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Cơ quan quyền lực đáy đại dương được quy định chi tiết tại Phần XI và Hiệp định thực thi Phần XI của UNCLOS năm 1982
(13) Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc
(13) Nghĩa vụ trao đổi quan điểm được quy định tại Điều 283 UNCLOS năm 1982. Thời gian hợp lý được xác định theo hoàn cảnh của từng vụ, việc cụ thể
(14) Quy định tại Điều 287 UNCLOS năm 1982. Trong đó, Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII và Trọng tài thành lập theo Phụ lục VIII đều là các trọng tài vụ việc (ad-hoc arbitration). Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII có thẩm quyền chung với mọi loại tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS năm 1982, còn Trọng tài thành lập theo Phụ lục VIII chỉ có thẩm quyền với các tranh chấp liên quan đến nghiên cứu khoa học biển
(15), (16) Quy định tại Điều 297 UNCLOS năm 1982
(17) Điều 244 UNCLOS năm 1982
(18) Cho tới nay, quá trình đàm phán đã được tổ chức tại 5 phiên họp toàn thể liên chính phủ. Xem: https://www.un.org/bbnj/
(19) Toàn văn Tuyên bố được lưu tại cơ sở dữ liệu của Liên hợp quốc về yêu sách biển của các quốc gia, https://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/VNM_1977_Statement.pdf
(20) Điểm 2, Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ngày 23-6-1994
(21) Việt Nam nộp đệ trình khu vực thềm lục địa mở rộng phía Bắc tới CLCS vào ngày 7-5-2009, https://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_vnm_37_2009.htm
(22) Đệ trình chung giữa Việt Nam và Ma-lai-xi-a về ranh giới thềm lục địa mở rộng được nộp vào ngày 6-5-2009, https://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm
(23) Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, năm 2000, http://biengioilanhtho.gov.vn/medias/public/Archives/head/Cac%20nuoc%20bien%20gioi/UBBG.Viettrung09.pdf
(24) Sau khi Việt Nam nộp đệ trình thềm lục địa mở rộng khu vực phía Bắc, Phi-líp-pin gửi Công hàm bày tỏ quan ngại thềm lục địa của Việt Nam có thể tạo ra chồng lấn với thềm lục địa của Phi-líp-pin. Tuy nhiên, cho tới nay, khu vực chồng lấn chưa được xác định cụ thể. Tương tự, thềm lục địa mở rộng của Việt Nam cũng có thể tạo ra khu vực chồng lấn với Bru-nây
(25) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 81
(26) Nhóm bạn bè UNCLOS là nhóm đầu tiên Việt Nam khởi xướng, đồng chủ trì vận động thành lập (cùng Đức) và tham gia nhóm nòng cốt (bao gồm 12 nước là Ác-hen-ti-na, Ca-na-đa, Đan Mạch, Đức, Gia-mai-ca, Kê-ny-a, Hà Lan, Niu Di-lân, Ô-man, Xê-nê-gan, Nam Phi và Việt Nam). Đến nay, tham gia Nhóm bạn bè của UNCLOS có 115 nước, đại diện cho tất cả các khu vực địa lý
(27) Xem: Phát biểu của Chủ tịch Phiên họp lần thứ 76 của Đại hội đồng Liên hợp quốc Áp-đun-la Sa-hít (Abdulla Shahid), United Nations, ngày 29-4-2022, https://www.un.org/pga/76/2022/04/29/40th-anniversary-of-the-adoption-of-the-united-nations-convention-on-the-law-of-the-sea-unclos/