Tìm kiếm
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:

 

 

Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.861.433
Truy câp hiện tại 1.344
"học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách hồ chí minh"
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để cầm quyền, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ta (tiếp theo và hết)
Ngày cập nhật 14/04/2023

Ngày 31/01 và 09/02/2023, Tạp chí Tổ chức nhà nước đã đăng bài viết "Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để cầm quyền, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ta" của TS Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản. Dưới đây là những nội dung tiếp theo của bài viết.

Thực tiễn 93 năm qua ngày càng xác tín, nói tới chính trị, trước hết nói tới sự đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bằng và bởi pháp luật. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải thật sự mang tính pháp quyền, nhằm bảo đảm và tăng cường vị thế, vai trò, hiệu lực, hiệu quả của Đảng và mỗi thành viên của hệ thống chính trị, tạo ra sức mạnh tổng hợp của nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là mục tiêu của cương lĩnh chính trị mang ý nghĩa bất biến và cao nhất của Đảng ta trên lộ trình đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền một cách pháp quyền và nhân văn. 

Để chủ động và không ngừng nắm lấy pháp luật pháp luật thực thi lãnh đạo, cầm quyền một cách ngang tầm vị thế, vai trò của Đảng, cần thực thi 05 nhóm công việc chủ yếu sau:

Thứ nhất, Đảng nêu gương nắm lấy pháp luật để lãnh đạo, cầm quyền, phải là mẫu mực tuân thủ pháp luật. 

Với tư cách là người lãnh đạo, cầm quyền, Đảng tiên phong “tự kiểm soát” quyền lực của mình bằng các nguyên tắc, quy chế, quy định nội bộ, kỷ luật bảo đảm tổ chức và hoạt động của Đảng ở tất cả tổ chức các cấp và đối với từng đảng viên theo Điều lệ Đảng bảo đảm phù hợp và thống nhất với pháp luật. Nói cách khác, Đảng cương phải thật sự tương đồng, thống nhất với Quốc pháp. Đảng viên giữ cương vị càng cao càng chịu mức kỷ luật nặng hơn khi vi phạm kỷ luật, không kể đảng viên đương chức hay đã nghỉ hưu để làm gương cho toàn thể đảng viên và xã hội. 

Đồng thời, để kiểm soát quyền lực của mình, Đảng bảo đảm cho Nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng và Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Nhân dân giám sát Đảng một cách đa diện: phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình, sống và hành động trong lòng Nhân dân, xử lý vi phạm pháp luật của tổ chức và đảng viên theo Quốc pháp và Đảng cương... Mặt khác, việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng tiếp tục được thực hiện rộng rãi bởi các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức chính trị - xã hội... Các hình thức kiểm soát này cần tiếp tục được đổi mới không ngừng và chế định cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật thống nhất với Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng. 

Việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được thực thi bởi việc đo lường hiệu quả lãnh đạo, lòng tin của Nhân dân, uy tín của Đảng trên trường quốc tế theo vai trò, chức năng của Đảng cầm quyền được chế định bởi Hiến pháp, pháp luật phù hợp với thông lệ và pháp luật quốc tế, trước hết trên các phương diện: định lượng kết quả thực thi các quyết sách chính trị; mức độ lòng tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; vị thế, sức mạnh và uy tín quốc gia dân tộc với những giá trị tiến bộ mang tầm vóc thời đại mà Đảng mang đến cho Nhân dân và đất nước, cho dân tộc; sự thừa nhận của các đảng chính trị và các quốc gia trên thế giới. 

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận trung thành của hệ thống ấy; gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của Nhân dân; hoạt động và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật... phải là những nhân tố bảo đảm tự kiểm soát và sự kiểm soát hữu hiệu quyền lực chính trị và trách nhiệm lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng là thước đo quyết định vị thế, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo, cầm quyền và uy tín của Đảng không thể đứng hàng thứ hai so với luật pháp. Việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng bằng Quốc pháp và Đảng cương đạt tới mức độ nào thì sức mạnh chính trị và uy tín chính trị của Đảng được bảo đảm một cách căn bản thành công tới mức độ đó; lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, sức mạnh của thể chế, dưới ngọn cờ của Đảng được nhân lên và phát huy sức mạnh, uy tín quốc tế của Đảng cũng được thừa nhận tới mức độ đó. Do vậy, chủ động “tự kiểm soát” và kiểm soát quyền lực của Đảng luôn gắn chặt với hai phương diện: pháp lý và đạo lý. Nghĩa là, Đảng nắm lấy pháp luật, nêu gương công lý để lãnh đạo, cầm quyền chính pháp và nhân văn.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới nhận thức và tổ chức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Kiểm soát quyền lực bằng pháp luật nhằm bảo đảm cân bằng quyền lực là phương châm xây dựng và phát triển đất nước; là trọng trách lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và ở tầm vĩ mô là hệ thống chính trị. Trên nền tảng Hiến pháp, tiếp tục đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự dân chủ, trong sạch và thượng tôn pháp luật. Nhà nước Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện; xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với Nhân dân và với thị trường; bảo đảm năng lực quản lý và điều hành chỉ tuân theo pháp luật, tuyệt đối tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chịu trách nhiệm chăm lo, phục vụ Nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng một cách vô điều kiện. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 

Trọng trách của Nhà nước là xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật để vận hành chủ động việc quản lý nền kinh tế vĩ mô, việc quản trị xã hội và thực hiện đúng đắn, hiệu quả các cam kết quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. Theo đó, vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, bằng pháp luật và chỉ tuân thủ pháp luật. 

Hiến pháp và hệ thống pháp luật phải là sự thể chế hóa cụ thể quan điểm, đường lối của Đảng và được Hiến định. Nghĩa là, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải nhằm bảo đảm cho Nhà nước thực thi một trong những trọng trách căn bản của mình là xây dựng và thực thi hệ thống pháp lý quản trị quốc gia bằng các luật và bộ luật, tiếp tục tiến tới bởi các bộ luật và luật, theo các quyết sách chính trị của Đảng một cách thống nhất và toàn diện.

Thứ ba, lãnh đạo cải cách tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong xây dựng pháp luật.

Đổi mới tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội ngang tầm và xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan lập pháp. Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Hiệu quả hoạt động được bảo đảm bằng hiệu quả các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để lựa chọn, bầu đúng và trúng những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội; xác lập cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và bảo đảm trách nhiệm với cử tri. Tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại, phản biện trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội.     

Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi. Với chức năng của cơ quan lập pháp duy nhất, bảo đảm số lượng đại biểu chuyên trách cần thiết, việc xây dựng luật phải thuộc và chỉ thuộc về Quốc hội, chấm dứt tình trạng “vừa soạn thảo vừa thực thi” - mầm mống của "lợi ích nhóm" và các nhóm lợi ích trong công tác lập pháp. Thực hiện nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí… 

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ tinh gọn, hợp lý, trực tiếp, theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm tính pháp quyền và dân chủ trong điều hành; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng để trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành. Tiếp tục đổi mới và cấu trúc lại bộ máy Chính phủ đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giữ đúng vai trò quản trị quốc gia điều hành theo luật định của một cơ quan chấp hành; giữ đúng vị thế, vai trò là cơ quan quản lý nhà nước, thực thi trọng trách quản trị ngành. Mặt khác, nghiên cứu, chỉnh đốn và xây dựng cơ quan quản lý nhà nước bao quát và phù hợp hơn. 

Để tránh tình trạng ôm đồm hoặc “bỏ quên” công vụ, chức năng quản lý nhà nước phải được phân định minh bạch theo chức năng, nhiệm vụ, công cụ quản trị được chuẩn bị tốt nhất theo mô hình Chính phủ điện tử, trước hết số hóa các công việc và lĩnh vực cơ bản và cần kíp. Phương châm bao trùm của các bộ, ngành là quản lý công việc và quản trị ngành theo pháp luật chứ không phải làm thay người thực thi luật pháp. Đồng thời, nghiên cứu tổ chức lại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tới cơ sở theo hướng sáp nhập, nhằm giảm đầu mối, trên cơ sở tương hợp về vùng lãnh thổ hoặc vùng kinh tế, tương dung về văn hóa, truyền thống và xã hội; thực hiện phân cấp, phân quyền một cách dân chủ và hợp lý đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao theo pháp luật. Từ đó, tập trung nguồn lực, thực thi phân cấp, phân quyền một cách đủ mạnh, bảo đảm sự quản lý, điều hành ở tầm quốc gia một cách linh hoạt và thống nhất. 

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Cải cách đồng bộ tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, thống nhất, đồng bộ, độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức tương ứng với hệ thống tổ chức tòa án, bảo đảm thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Đổi mới hệ thống tổ chức của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối; định vị hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đổi mới và kiện toàn các tổ chức bổ trợ tư pháp. Kiến tạo cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp. 

Nghĩa là, toàn bộ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải nhằm định hướng tất cả công việc của Nhà nước trên nền tảng pháp luật bảo vệ và phát triển công lý một cách vô điều kiện. 

Thứ tư, chỉnh đốn và tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong sạch, đủ năng lực ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.

Cần phân định và minh định hai chức năng của bộ máy hành pháp: chức năng hành pháp chính trị (kiến tạo chính sách, thể chế hành chính) và chức năng hành chính công vụ, để lựa chọn từng loại viên chức chính trị và công chức hành chính phù hợp (bằng những phương thức tuyển lựa cụ thể). Đây là khâu quan trọng quyết định chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của bộ máy hành chính nhà nước hiện nay. Theo đó, tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực pháp lý, năng lực điều hành, quản lý nhà nước; có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với Nhân dân. Thực hiện “nhất thể hóa” một số chức danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Thể chế hóa về pháp luật chế độ miễn nhiệm, huyền chức và từ chức.

Nghĩa là, bằng phương thức lãnh đạo, cầm quyền phù hợp mà Đảng hóa thân vào Nhà nước bằng các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng trên phương diện này chỉ theo luật định. 

Thứ năm, đổi mới cơ chế kiểm soát quyền lực, tôn vinh và phát huy địa vị của Nhân dân bằng và bởi pháp luật. 

Cần nhấn mạnh rằng, pháp luật phải là bà đỡ của dân chủ, đạo đức, là cán cân trong thực thi kiểm soát quyền lực bảo đảm cân bằng mọi quyền lực từ chính trị, kinh tế - xã hội, đối với mọi chủ thể quyền lực hoặc thừa ủy quyền quyền lực từ Đảng, Nhà nước tới tất cả các thành viên của hệ thống chính trị, bằng cơ chế phù hợp, trên nền tảng pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo hướng tổng hợp của nhiều “cơ chế kiểm soát có tính chất bộ phận”, nhằm kiểm soát tất cả các nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) dù ở các phạm vi khác nhau. Quy định chặt chẽ, chính xác về các chủ thể có thẩm quyền kiểm soát quyền lực nhà nước; về đối tượng, nội dung, hình thức, quy trình, hậu quả pháp lý… của việc kiểm soát. Nguyên tắc pháp chế luôn được đề cao, đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước phải thực hiện vô điều kiện các quy định pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước trong tổ chức cũng như trong hoạt động. Cơ chế kiểm soát quyền lực được xác lập bởi pháp luật nên luôn mang tính bắt buộc, công khai, minh bạch, đòi hỏi các chủ thể phải tiến hành thường xuyên hoặc theo định kỳ tùy theo đối tượng và các nội dung cần kiểm soát theo pháp luật. 

Đảng quán xuyến, phải nắm lấy cơ chế đó và kiểm tra, kiểm soát nó. Đặc biệt, việc cấp bách nhưng mang tầm chiến lược là, Đảng phải lãnh đạo việc xây dựng và phát triển pháp luật đủ mạnh để thực thi kiểm soát quyền lực đối với chính những cá nhân và tổ chức được giao kiểm soát quyền lực đối với chính bản thân Đảng, Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị, với phương châm không ngoại lệ một ai, không bỏ sót một tổ chức nào và không đặc quyền với bất cứ một cấp nào. Trước pháp luật, tất cả đều bình đẳng. Bảo đảm bằng pháp lý thực tế vị thế, vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của Nhân dân trong việc giám sát, phản biện công việc của Đảng, Nhà nước, cán bộ, công chức; tham gia quản lý công việc đất nước và xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, giúp họ nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và đối ngoại nhân dân. Tạo khuôn khổ để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức bộ máy tập trung, tinh gọn, liên thông và trực tiếp, tập trung sức mạnh tổng thể chứ không phải là sức mạnh của tổng số thành viên đơn lẻ. 

Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, có trọng trách bảo đảm và tôn trọng các hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, Đảng và Nhà nước tạo khuôn khổ chính trị, pháp lý để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức của Nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần bảo đảm tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành động, thực thi đúng chức năng, nhiệm vụ trong quá trình đổi mới, cải cách vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên vừa vận động đoàn kết, chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vì lợi ích của mình và của toàn dân tộc. Tập hợp, đoàn kết Nhân dân xây dựng cơ sở chính trị, xã hội của Đảng và Nhà nước; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tăng cường những hoạt động phản biện xã hội đối với các quyết sách chính trị của Đảng và Nhà nước; đồng thời, bảo đảm cho Nhân dân bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của chính mình và tự quản xã hội bằng pháp luật. 

Nghĩa là, vị thế, sức mạnh, uy tín lãnh đạo, cầm quyền bằng pháp luật của Đảng tùy thuộc vào trình độ và mức độ xây dựng cơ sở xã hội - chính trị cầm quyền của Đảng một cách chính danh, chính pháp. Một cách khái lược, nếu Nhà nước thực thi công việc quốc gia của mình bằng pháp luật và chuyển dần sang bởi pháp luật một cách hiện đại và nhân văn thì công cuộc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trên phương diện này chính là bước chuyển từ pháp luật để lãnh đạo, cầm quyền tới lãnh đạo, cầm quyền bởi pháp luật. 

Đó là tầm viễn kiến chính trị chiến lược của Đảng ta; là thước đo sức mạnh và hiệu quả của phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong tổng thể các công việc của một đảng cầm quyền, là một trong những nhân tố rất quan trọng làm nên vị thế, năng lực, sức mạnh và uy tín lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Tất cả đều bảo vệ và phát triển công lý Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng hiện nay và tương lai. Hơn lúc nào hết, Đảng ta phải càng chủ động và kiên định nắm chắc lấy luật pháp để cầm quyền bảo đảm thống nhất vai trò lãnh đạo, trách nhiệm lịch sử với thượng tôn pháp luật nhằm nâng cao vị thế, vai trò và sức mạnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với cách mạng Việt Nam./.

 

TS Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày