Hội nghị thành lập
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
-Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực. Đồng thời chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ.
-Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân ta, trước hết là công nhân và nông dân bị bần cùng hoá, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp.
- Về văn hoá-xã hội, chúng thực hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu.
Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời, nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược thống nhất đất nước
Sau thời gian học tập ở Liên Xô, tháng 4-1930 đồng chí Trần Phú trở về nước hoạt động. Theo đề nghị của Nguyễn Ai Quốc, Trần Phú tham gia Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị kỳ họp thứ nhất của BCHTW và dự thảo Luận cương chính trị.
Hội nghị BCHTW lần thứ nhất họp từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì, đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã đổi tên ĐCSVN thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã bầu BCHTW chính thức, đồng chí Trần Phú được bầu là Tổng Bí thư.
Tháng 3-1935 Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc). Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và trong nước, Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là: Củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng; thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ai Quốc là đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, với tư cách Trưởng đoàn đại biểu Đảng ta, đồng chí Lê Hồng Phong đã được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng; Đại hội đã đánh dấu sự khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay 22-6-1938 Lê Hồng Phong bị bắt tại Sài Gòn, sau 6 tháng tù giam, chúng đưa về quê nhà quản thúc. Lo sợ trước vai trò của lãnh tụ Lê Hồng Phong ngày 29-9-1939 bọn mật thám Pháp lại bắt giam đồng chí tại Khám lớn Sài Gòn. Cuối năm 1940 chúng đày Lê Hồng Phong ra Côn Đảo. Trước sự đầy đoạ khắc nghiệt, tra tấn dã man, tàn bạo của kẻ thù, đồng chí vẫn nêu cao khí tiết của người cộng sản. Đồng chí bị kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 5-9-1942.
Sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất, nhiều đồng chí Trung ương bị bắt; công tác của Ban Chấp hành Trung ương do Ban chỉ huy ở nước ngoài đảm nhiệm. Đồng chí Hà Huy Tập-Trưởng Ban lãnh đạo hải ngoại kiêm chức Tổng Bí thư của Đảng đến tháng 3-1938. Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, Hội nghị Trung ương tháng 3-1938 bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào Ban thường vụ Trung ương và được cử giữ chức Tổng Bí thư của Đảng. Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn và một số đồng chí uỷ viênTrung ương bị bắt, các đồng chí còn lại cùng đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt (Xứ uỷ Bắc Kỳ) tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương của Đảng, đồng chí Trường Chinh được cử giữ chức quyền Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951, tại xã vinh quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan).
Sau lời khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận các báo cáo trình trước Đại hội: Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh, Báo cáo về Tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương và nhiều báo cáo bổ sung khác. Sau khi thảo luận Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội đã thông qua nghị quyết khẳng định: Đường lối đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng đắn. Trong điều kiện lịch sử mới, Đại hội chủ trương xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia, một Đảng cách mạng thích hợp với hoàn cảnh cụ thể, để lãnh đạo cuộc kháng chiến từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Kế thừa truyền thống của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lịch sử trọng đại vừa tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta, vừa có nghĩa vụ giúp đỡ các Đảng cách mạng ở Lào và Cămpuchia đấu tranh thắng lợi.
Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh đã phân tích rõ tính chất, những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam và chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ hình thức bóc lột phong kiến, làm cho người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo xác định lực lượng cách mạng Việt Nam gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc. Động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân và nông dân. Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Báo cáo Bàn vè cách mạng Việt Nam là một văn kiện lịch sử rất quan trọng, đã bổ sung hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc, dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến hành trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị. Chủ tịch Đảng là đồng chí Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư là đồng chí Trường Chinh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối do Đại hội đề ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng và thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.
Hơn 9 năm sau Đại hội Đảng lần thứ II (1951) cách mạng Việt Nam đã có những thay đổi lớn. Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Về dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước
Trong lời khai mạc Đại hội, đồng chí Hồ Chí Minh Chủ tịch Đảng đã khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Sau lời khai mạc, đồng chí Lê Duẩn, Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo Chính trị trước Đại hội. Báo cáo Chính trị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông-Nam-Á và trên thế giới. Báo cáo nhấn mạnh tính chất lâu dài, gian khổ và phức tạp của cách mạng miền Nam và quá trình giành thắng lợi của cách mạng miền Nam là quá trình phát triển từ thấp đến cao, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, lấy việc xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng làm cơ sở.
Báo cáo Chính trị đã phân tích một cách sâu sắc về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước hết phải biến miền Bắc thành căn cứ vững chắc cho cách mạng cả nước, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Báo cáo chính trị chỉ rõ nội dung cơ bản của công cuộc cải tạo xã hội chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, đó là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đường lối chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Tiếp theo Báo cáo Chính trị, đồng chí Lê Đức Thọ đọc báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng. Báo cáo chỉ rõ trước tình hình mới, yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Đảng là phải ra sức củng cố Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững và nâng cao hơn nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng có khả năng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo quản lý kimh tế và văn hoá, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm tròn nghĩa vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết; Ban Bí thư Trung ương Đảng có 7 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng..
Trong diễn văn bế mạc Đại hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khẳng định: Đại hội lần thứ hai đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn rằng Đại hội lần thứ III này sẽ là nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hoà bình, độc lập, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của Đảng là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là Đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1008 đại biểu thay mặt cho 1,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã đọc Diễn văn khai mạc; đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày.
Báo cáo Chính trị đã tổng kết quá trình đấu tranh anh dũng, bền bỉ, liên tục và thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất và vô cùng ác liệt của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Báo cáo cũng chỉ rõ những nguyên nhân đưa đến thắng lợi và những bài học có giá trị để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Trên cơ sở phân tích mọi mặt tình hình của đất nước khi bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đường lối chung, Báo cáo vạch rõ đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đại hội cũng đã nêu ra những nhiệm vụ cụ thể về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Đại hội quyết định đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ mới của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội bầu ra gồm 102 uỷ viên chính thức và 32 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản lần thứ nhất ngày 19-12-1976 đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị đã bầu Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt cho 1.727.000 đảng viên. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV. Báo cáo khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng ta và nhân dân ta là đã nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tạo nên cuộc sống hòa hợp dân tộc, chan hòa từ Bắc đến Nam. Thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Báo cáo nêu bật những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa; đồng thời xác định rõ hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra.
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng đã nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng có vị trí đặc biệt quan trọng và chỉ rõ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một Đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt với quần chúng.
Đại hội đã nghe Báo cáo phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80 do đồng chí Phạm Văn Đồng - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết, đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc Đại hội. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V. Đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo phương hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm (1986-1990).
Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội nhận định năm năm qua là một chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã giành được những thắng lợi to lớn. Khẳng định những thành tựu, đồng thời Đại hội cũng chỉ rõ tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Đổi mới cơ ché quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho 2.155.022 đảng viên. Đồng chí Võ Chí Công đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Báo cáo đánh giá việc thực hiện đổi mới hơn 4 năm trên các lĩnh vực đời sống xã hội, đề ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm (1991-1995). Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu: Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, huy động được nguồn lực sản xuất của xã hội, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống của một bộ phận nhân dân được cải thiện.
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 146 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội lần thứ VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyets Đại hội VII; tổng kết 10 năm đổi mới; đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước đến năm 2000 và định hướng đến năm 2020; bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương mới.
Báo cáo Chính trị đã khẳng định những thành tựu quan trọng đã đạt được: Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Đảng cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém: Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta chưa thực hiện tôt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước…nghiêm trọng kéo dài. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới và
trong nước, Đại hội định ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo Chính trị khẳng định, toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới. Thắng lợi của công cuộc đổi mới chứng tỏ Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy được bản lĩnh và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết quả công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình hết sức phức tạp.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII gồm 170 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư. Bộ Chính trị cử ra Thường vụ Bộ Chính trị gồm 5 đồng chí. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1997) đã chấp nhận đề nghị của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về việc chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí Lê Khả Phiêu, Ủy viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị, giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị đánh giá cao công lao của các đồng chí cố vấn và chấp thuận đề nghị của các đồng chí, để các đồng chí được kết thúc nhiệm vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban Chấp hành Trung ương suy tôn các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã bầu bổ sung 4 đồng chí ủy viên Trung ương Đảng vào Bộ Chính trị.
Đại hội lần thứ IX của Đảng là “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới” họp tại Hà Nội từ ngày 19 đến 22-4-2001, dự Đại hội có 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.719 đảng viên trong toàn Đảng. Đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về các văn kiện trình Đại hội IX.
Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000, Báo cáo Chính trị khẳng định 5 nhóm thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả. Bên cạnh những thành tựu, Đại hội cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; một số vấn đề văn hóa, xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết; cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển; tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX gồm 150 ủy viên. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí; Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 18-4 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu, đại diện cho trên 3,1 triệu đảng viên.
Đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Các Văn kiện trình Đại hội: Báo cáo Chính trị; Báo cáo về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo công tác xây dựng Đảng; Báo cáo về một số vấn đề bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng và dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi); Báo cáo về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII trên lĩnh vực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.
Đại hội xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006- 2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện bằng được mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 đồng chí ủy viên chính thức và 21 đồng chí ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm 8 đồng chí; đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.