TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Kinh nghiệm xây dựng lực lượng cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền
Ngày cập nhật 14/01/2010

I- BA CAO TRÀO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TIẾN TỚI KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN

1- Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh

Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong những nǎm 1930-1931 tuân theo một quy luật chung là ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đế quốc Pháp trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế lên vai giai cấp công nhân, nhân dân lao động Pháp và các thuộc địa của Pháp. Đối với nước ta vào những nǎm 1924-1929, đế quốc Pháp tǎng cường đầu tư, khai thác và bóc lột. Nên kinh tế Việt Nam vốn đã kiệt quệ do chính sách bóc lột thậm tệ của thực dân Pháp, nay lại càng kiệt quệ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân ta đều bị đe doạ, trong đó công nhân và nông dân chịu nhiều tai hoạ nhất.

Để đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp và bọn vua quan phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, Đảng chủ trương phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".

Nhiệm vụ của Đảng là "phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng... để dự bị họ về phía võ trang bạo động sau này"

Theo phương hướng đấu tranh đó, phong trào công nông được dấy lên từ cuối nǎm 1929 đến nǎm 1930. Tiếp theo cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Phú Riềng (Nam Bộ) tháng 2-1930, cuộc bãi công của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định kéo dài ba tuần lễ, từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 16 tháng 4 do Tỉnh uỷ Nam Định và Đảng uỷ nhà máy tổ chức. Ngay sau đó ngày 19 tháng 4, 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ, thành phố Vinh đình công đòi tǎng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Ngoài những cuộc đấu tranh của công nhân, còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác như: cuộc biểu tình của nông dân Hà Nam, Thái Bình, đòi giảm sưu thuế nổ ra trong tháng 4-1930.

Những cuộc đấu tranh lớn nói trên của công nhân và nông dân là những "pháo hiệu" mở đầu cao trào cách mạng mới ở Việt Nam, chứng tỏ vai trò dẫn đầu cao trào là giai cấp công nhân và tiếp theo là giai cấp nông dân.

Trên cơ sở phong trào công nông bước đầu phát triển và thắng lợi, Đảng kêu gọi quần chúng tiếp tục đấu tranh đòi tǎng lương, giảm giờ làm cho công nhân, giảm sưu, hoãn thuế cho nông dân để thiết thực kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 15-1930.

Cuộc đấu tranh ngày 1-5-1930 là một bước ngoặt đánh dấu phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển thành cao trào cách mạng. Ngày đó, từ thành thị đến nông thôn ở nhiều nơi trong cả nước treo cờ Đảng, rải truyền đơn, tổ chức mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế đã kết hợp với khẩu hiệu chính trị. Nhiều cuộc bãi công, biểu tình đã liên tiếp nổ ra từ các xí nghiệp công nghiệp ở thành thị đến các vùng nông thôn ở nhiều tỉnh trong cả nước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy với các cuộc biểu tình của nông dân ở làng xã, sự đoàn kết đấu tranh giữa công nhân và nông dân làm cho đế quốc Pháp lúng túng, bị động, lo sợ.

Tháng 9-1930, cao trào tiếp tục phát triển lên đỉnh cao. Những khẩu hiệu chính trị được kết hợp chặt chẽ với các yêu sách về kinh tế trong hàng loạt các cuộc đấu tranh ở khắp cả nước.

ở Nghệ An, Hà Tĩnh từ cuối tháng 8 đến đâu tháng 9-1930 là thời kỳ "đấu tranh kịch liệt", diễn ra nhiều cuộc đấu tranh quy mô huyện và liên huyện với hàng nghìn, hàng vạn dân chúng tham gia. Những cuộc đấu tranh tiêu biểu như cuộc biểu tình của 3.000 nông dân huyện Nam Đàn ngày 30-8, của 20.000 nông dân Thanh Chương ngày 1-9, của 3.000 nông dân huyện Can Lộc ngày 7-9, của 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên ngày 12-9-1930. Phần lớn những cuộc biểu tình này là những cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ. Quần chúng phá huyện đường, đốt giấy tờ, phá nhà giam, phá xiềng gông, giải phóng những người bị bắt. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, bọn thực dân, phong kiến hoảng sợ, nhiều tên tri huyện, lý trưởng nộp lại ấn tín hoặc chạy trốn, nhiều nơi chính quyền địch tan rã. Trong tình hình đó, Xô viết Nghệ Tĩnh, một hình thức chính quyền đâu tiên của công nông trong lịch sử cách mạng Việt Nam xuất hiện.

Xây dựng được đội quân chủ lực của cách mạng, thực hiện được liên minh công nông là một thành tích nổi bật của Đảng ta trong cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh.

Thực tế lịch sử cho thấy, trong cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, công nông thể hiện một nghị lực cách mạng Phi thường và sức mạnh to lớn. Hàng triệu nông dân đã đứng lên cùng với giai cấp công nhân phối hợp đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.

Đó là nhờ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đúng, gắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện giải phóng dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của công nông.

Nhưng nếu chỉ, thấy lực lượng cách mạng có hai giai cấp công nhân và nông dân thì sẽ dẫn đến cô độc, hẹp hòi, hạn chế việc mở rộng lực lượng cách mạng. Trong chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh Đông Dương ra ngày 18-11-1930, Thường vụ Trung ương Đảng đã phân tích, chỉ rõ tính "biệt phái" của phong trào, thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng để lôi cuốn các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn quốc gia độc lập. Đó là nhận thức mới, cách nhìn mới, đánh giá đúng các tầng lớp, giai cấp trong dân tộc của Đảng. Chỉ có như vậy mới tập hợp được lực lượng của cả dân tộc. Vì "Cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công".

Đội quân chính trị quần chúng có tính quyết định là công nông, nhưng muốn đánh đổ kẻ thù lớn mạnh, đạt tới thắng lợi nhanh nhất và giảm bớt tổn thất cho cách mạng, đội quân chính trị ấy không thể chỉ có công nông, mà phải bao gồm hết thảy các giai cấp và tầng lớp có khả nǎng chống đế quốc và phong kiến.

2. Cao trào vận động dân chủ 1938-1939

Vào cuối nǎm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ thoái trào. Thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp khủng bố rất tàn bạo, nhất là đối với nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh.

Cơ quan trung ương, các xứ uỷ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, nhiều cơ quan tỉnh, huyện, xã bị phá vỡ hầu hết. Kẻ địch định dìm phong trào cách mạng của quần chúng trong biển máu, tình hình đen tối tưởng như không có đường ra. Cách mạng đứng trước thử thách lớn.

Do tinh thần yêu nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân ta và lòng trung thành, ý chí đấu tranh kiên cường của cán bộ, đảng viên, cách mạng đã nhanh chóng ra khỏi thời kỳ thoái trào, tiến lên một cao trào mới, cao trào vận động dân chủ 1936-1939.

Cách mạng Việt Nam những nǎm 1936-1939 diễn ra trong bối cảnh thế giới có những diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới đang đến gần. Nhân loại đứng bên bờ vực của thảm hoạ chiến tranh.

Chủ nghĩa phát xít là kẻ thù xấu xa, tàn bạo nhất của nhân dân thế giới. Trước tình hình ấy, Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII đã họp tại Mátxcơva (7-1935), tham gia Đại hội có 65 đoàn đại biểu của các Đảng cộng sản trên thế giới. Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Đông Dương có các đồng chí Lê Hông Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Vǎn Nọn do đồng chí Lê Hông Phong làm trưởng đoàn. Đồng chí Hồ Chí Minh, lúc này đang học tập và nghiên cứu tại trường Quốc tế Lênin ở Mátxcơva cũng được mời dự. Đại hội xác định kẻ thù trước mắt của giai cấp công nhân, nhân dân thế giới là chủ nghĩa phátxít, nhiệm vụ đấu tranh trước mắt là chống phátxít, chống chiến tranh, đòi dân chủ, gìn giữ hoà bình. Đại hội quyết định thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi trên thế giới chống chủ nghĩa phátxít, đòi tự do, dân chủ và hoà bình. ở Pháp, vào đầu nǎm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp và Chính phủ phái tả phải ra sắc lệnh ân xá chính trị phạm ở Đông Dương, thành lập uỷ ban điều tra tình hình thuộc địa ở Bắc Phi và Đông Dương, có một số thay đổi về chế độ lao động đối với công nhân.

Vận dụng nghị quyết Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII, phân tích tình hình thế giới, trong nước, Đảng xác định kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng, mục tiêu đấu tranh trước mắt là chống bọn phản động thuộc địa, chống phátxít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Mục tiêu đó không chỉ thống nhất với mục tiêu đấu tranh của nhân dân thế giới, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ quốc tế, mà còn đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng bức thiết của nhân dân ta, có sức cổ vũ và tập hợp lực lượng một cách rộng lớn, thu hút được hết thảy các giai cấp, tầng lớp tham gia phong trào dân chủ bằng nhiều hình thức phong phú, sát hợp.

Mặt trận dân chủ, một hình thức mặt trận thích hợp nhất lúc đó đã thay thế Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế.

Thành phần tham gia Mặt trận dân chủ rộng hơn Mật trận phản đế. Mặt trận dân chủ không chỉ có các lực lượng tiên tiến, kiên quyết chống đế quốc mà gồm cả những thành phần chỉ có yêu cầu cải cách, không chỉ có quần chúng cơ bản là công nhân, nông dân mà còn có cả những tầng lớp tư sản, địa chủ, các đảng phái cải lương ít nhiều tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tôn giáo đấu tranh cho dân chủ, tự do cơm áo, hoà bình.

Mặt trận không chỉ bao gồm những người tán thành dân chủ thuộc ba nước Đông Dương, mà còn thu hút cả những ngoại kiều như Hoa kiều, Pháp kiều tán thành mục tiêu này. Để tập hợp đồng đảo quần chúng, trong chính sách mặt trận, Đảng coi trọng liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh với các tầng lớp trên, lấy liên minh công nông làm nền tảng.

Các nghị quyết của Đảng thời kỳ này vạch rõ tình hình mới đòi hỏi Đảng phải có đường lối chính trị mới và có phương pháp hoạt động mới. Phương pháp phải rất linh hoạt nhằm đoàn kết đồng đảo quần chúng trong một mặt trận thống nhất chống phản động thuộc địa, chống phátxít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ.

Đảng chủ trương chuyển hình thức hoạt động bí mật, không hợp pháp sang các hình thức công khai, hợp pháp và nửa công khai, hợp pháp, nhằm tập hợp và hướng dẫn đông đảo quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, qua đó giáo dục, phát triển lực lượng cách mạng.

Các cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp đã diễn ra sôi nổi ở cả ba nước Đông Dương nhất là ba xứ Nam, Trung, Bắc thuộc Việt Nam. Đó là phong trào Đông Dương đại hội, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, phong trào báo chí, truyền bá quốc ngữ, đấu tranh nghị trường, những cuộc mít tinh nhân ngày quốc tế lao động 1-5, những cuộc đón tiếp Gôđa và Brêviê, các "vị quan to của nhà nước bảo hộ Pháp". Nhứng cuộc đấu tranh đó đã thu hút được hàng nghìn, hàng vạn quần chúng. Đảng và quần chúng trưởng thành nhanh chóng qua thực tiễn đấu tranh, đồng thời càng thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân cùng những kinh nghiệm giác ngộ, tổ chức quần chúng thành những lực lượng cách mạng tự giác.

Thực tiễn thời kỳ 1936-1939, Đảng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa mục tiêu với các hình thức tổ chức đấu tranh.

Hình thức tổ chức đấu tranh phải phục tùng mục tiêu đấu tranh, phải huy động được nhiều lực lượng tham gia đấu tranh bằng nhiều hình thức thích hợp.

Đảng đặt vấn đề phải biết tranh thủ những điều kiện hợp pháp, không ảo tưởng về con đường hợp pháp giành chính quyền, mà chính là để mở rộng việc giáo dục và tập hợp quần chúng, phát triển rộng rãi ảnh hưởng của cách mạng. Từ những hội ái hữu, nghiệp đoàn, đưa nguyện vọng đòi mở Đại hội Đông Dương, đón phái đoàn điều tra, truyền bá quốc ngữ, hoạt động báo chí đến việc lợi dụng Viện dân biểu, Hội đồng quản hạt, yêu cầu cải cách hương chính v.v., Đảng và quần chúng đã sáng tạo ra hàng loạt hình thức hoạt động, tổ chức và đấu tranh vô cùng phong phú, linh hoạt, từ thấp đến cao. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tập hợp được đội quân chính trị quần chúng rộng lớn.

Động viên hàng triệu quần chúng vào mặt trận đấu tranh, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, thợ thủ công, những người buôn bán nhỏ mà hình thành đội quân chính trị quãn chúng rộng lớn, thực sự là bước phát triển mới trong xây dựng lực lượng cách mạng, là một trong những thành quả nổi bật trong cao trào cách mạng 1936-1939.

Trong cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất (1930-1931) lực lượng đấu tranh chủ yếu là công - nông, thì trong cuộc tổng diễn tập tân thứ hai (1936-1939) ngoài công - nông là nòng cốt còn có đồng đảo các tâng lớp, giai cấp tập hợp trong Mặt trận dân chủ.

Trên cơ sở phong trào quần chúng rộng rãi, nòng cốt là khối liên minh công - nông đã hình thành trên thực tế từ cao trào 1930-1931, Đảng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đó là bước tiến mới trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về xây dựng lực lượng cách mạng.

3. Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945

Tình hình thế giới vào những nǎm 1939-1945, nổi bật là cuộc Chiến tranh thế giới tân thứ hai bùng nổ, chi phối đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các nước. Chiến tranh gây tổn thất, đau thương cho nhân dân, đồng thời đẩy nhanh quá trình "cách mạng hoá quần chúng". Đảng cách mạng của giai cấp vô sản nhân cơ hội đó tập hợp lực lượng, đẩy nhanh quá trình phát triển phong trào cách mạng tiến lên từng bước vững chắc.

Chính phủ phản động Pháp là một trong những bên gây ra chiến tranh. Sau khi tham chiến, chúng thi hành chính sách phátxít, giải tán Đảng cộng sản và các tổ chức dân chủ tiến bộ ở nước Pháp cũng như các thuộc địa của Pháp. Tại Đông Dương, chúng thi hành chính sách cai trị thời chiến trên tất cả các mặt đời sống xã hội, ra lệnh tổng động viên, bắt lính, bắt phu, tǎng cường áp bức, bót lột.

Nhận rõ những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, tiền đề của cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương, Đảng ta quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc cao hơn nhiệm vụ chống phong kiến, giành ruộng đất cho nông dân, coi nhiệm vụ trung tâm của cách mạng là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Đảng ta hiểu rằng, thắng lợi của cách mạng không tự đến mà phải chủ động chuẩn bị giành lấy và giữ vững. Muốn vậy phải có lực lượng, có sức mạnh toàn dân đoàn kết.

Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời chủ trương đoàn kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu, nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nhằm đấu tranh giải phóng dân tộc.

Mặt trận Việt Minh ra đời đã thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân dân. Từ cuối nǎm 1941 đến đâu nǎm 1942, các hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, đội tự vệ cứu quốc đã được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Mặt trận Việt Minh thực sự đã đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân.

Đặt vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng lực lượng về mọi mặt, vừa có lực lượng chính trị, vừa có lực lượng vũ trang.

Tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy hình thức đấu tranh vũ trang lên khi cần thiết, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, chú ý xây dựng, bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, ở cả nông thôn và thành thị là nội dung mới về xây dựng lực lượng cách mạng của thời kỳ 1939-1945.

Quá trình xây dựng lực lượng cách mạng đồng thời là quá trình phát triển cao trào đánh Pháp đuổi Nhật. Mặt khác, qua đấu tranh, lực lượng không ngừng lớn mạnh.

Trong hai nǎm 1943-1944, thực hiện Nghị quyết của Ban thường vụ trung ương Đảng tháng 2-1943, hầu hết các đảng bộ địa phương vùng động bằng Bắc Bộ, sau những đợt chống khủng bố, đã đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố các đoàn thể Việt Minh ở nông thôn và thành thị.

ở Hà Nội, tổ chức Việt Minh được phát triển mạnh trong nhiều nhà máy, trường học. ở các tỉnh đồng bằng và ven biển miền Trung, nhiều tổ chức cơ sở của Đảng và Việt Minh đã đi vào quần chúng công nhân, nông dân, dân nghèo, đồng thời phát triển vào các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức ở thành thị.

ở Nam Bộ, cùng với sự phục hồi một số cơ sở công hội, tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một số tỉnh khác. Hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong và vũ trang ở nhiều thành phố, thị xã đã gây thanh thế cho Việt Minh, thúc đẩy việc phát triển các đoàn thể cứu quốc.

ở vùng rừng núi và trung du Bắc Bộ, có những dấu hiệu của cao trào cách mạng. ở Cao Bằng, hệ thống Việt Minh được xây dựng khắp các cơ sở trong tỉnh. Đội tự vệ vũ trang và du kích được thành lập ở các xã, các huyện. Các lớp huấn luyện chính trị, quân sự mở ra liên tiếp. Phong trào chuẩn bị khởi nghĩa sục sôi trong toàn tỉnh. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa dâng lên mạnh mẽ ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Việt Trì.

Trong khi đó mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng phát triển gay gắt. Đúng như dự đoán của Đảng, đêm 9-3-1945, Nhật đã nổ súng đánh Pháp cùng một lúc trên toàn cõi Đông Dương.

Ngay đềm 9-3-1945, giữa lúc Nhật nổ súng đánh Pháp, Hội nghị mở rộng của Ban thường vụ trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường - Chinh chủ trì. Hội nghị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Giữa lúc ấy, nạn đói ở các tỉnh miền Bắc diễn ra rất nghiêm trọng. Chính sách vơ vét, bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã làm cho hơn hai triệu dân ta chết đói. Trước tình hình đó, Đảng nêu khẩu hiệu: "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói" Chủ trương đó của Đảng đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng, đã dấy lên một cao tràn đấu tranh rộng lớn ở nông thôn Bắc Bộ.

Cao trào kháng Nhật cứu nước càng dâng lên mạnh mẽ khi được tin thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và phátxít Nhật đầu hàng vô điều kiện.

Trong tình hình vô cùng khẩn cấp, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15-8-l.945, tiếp sau đó ngày 16-8-1945 Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa. Nhân dân cả nước, triệu người như một đã nhất tế đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25-8-1945, nhân dân ta đã giành được chính quyền trong cả nước.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi "chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.

Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi là kết quả hợp thành của các nhân tố chủ quan và khách quan, trong và ngoài nước. Nhưng quyết định trực tiếp, trước hết là các nhân tố chủ quan bên trong. Đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân ta.

Trong suốt 15 nǎm, kể từ khi ra đời đến Cách mạng Tháng Tám 1945, qua ba cao trào, Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt. Nhờ có lực lượng toàn dân đoàn kết được xây dựng rộng khắp, có tổ chức chặt chẽ nên cách mạng Tháng Tám đã diễn ra nhanh, ít đổ máu và thắng lợi vẻ vang.

II- KINH NGHIỆM XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG

1. Từng thời kỳ, Đảng định ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thề sát đúng đề tập hợp quần chúng, xây dựng lực lượng cách mạng


Từ khi ra đời, Đảng đã xác định trong Cương lĩnh của mình con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam: trước làm cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến được kết hợp một cách khǎng khít, nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng.

Phương hướng và mục tiêu cơ bản đó đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng thiết tha nhất của toàn dân tộc, trước hết là công nhân, nông dân và nhân dân lao động. Đường lối chiến lược đúng là ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp lực lượng. Nhưng cách mạng muốn thắng lợi, muốn đạt tới mục tiêu chiến lược phải có sự chỉ đạo chiến lược đúng.

Kinh nghiệm cho thấy, đề ra mục tiêu chiến lược và kiên định mục tiêu chiến lược đó đã khó, thì việc đề ra mục tiêu trước mắt sát hợp với từng thời kỳ, kết hợp đúng đắn mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài còn khó khǎn, phức tạp hơn. ở đây, có thể phạm sai lầm "hữu khuynh" hoặc "tả khuynh". Nóng vội, chủ quan hay do dự, bảo thủ cũng dễ bị tổn thất. Phải kết hợp nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học, phải có quan điểm lịch sử cụ thể mới xác định được mục tiêu trước mắt sát đúng và do đó mới tập hợp và xây dựng được lực lượng cách mạng đồng đảo, vững mạnh. Đồng chí Đỗ Mười, Tổng bí thư đã nói: "Trong việc xác định mục tiêu, tuy có chú ý tính toàn diện, nhưng cần tập trung vào những trọng điểm và thể hiện tính khả thi, không đề ra cao quá, vì sẽ không có khả nǎng thực hiện, gây nghi ngờ trong quần chúng, cũng không hạ thấp vì sẽ kìm hãm phong trào cách mạng của nhân dân. Phải đặc biệt tính toán các giải pháp, phương tiện để thực hiện mục tiêu".

Thực tiễn lịch sử chứng tỏ, Đảng ta từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhận thức và giải quyết ngày càng đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Quá trình đó đồng thời là quá trình giác ngộ, tổ chức quần chúng và xây dựng lực lượng cách mạng. Luận cương chính trị tháng l0-1930 xác định đúng nhiệm vụ chiến lược và lực lượng cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta, nhưng chưa xác định rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, cho nên chưa đánh giá đúng vai trò, lực lượng của giai cấp trí thức tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Do đó dã hạn chế việc tập hợp lực lượng cách mạng.

Trong cách mạng 1936-1939, Đảng xác định mục tiêu trước mắt đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhấn dân, vì thế đã thu hút được đồng đảo quần chúng tham gia đấu tranh. Bên cạnh công nhân, nông dân trước sau vẫn là nòng cốt của cách mạng, Đảng còn thu hút được đồng đảo các tầng lớp các giai cấp, các dân tộc, kể cả các đảng phái cải lương, các cá nhân tiên tiến thuộc tầng lớp trên, tán thành đấu tranh cho dân sinh, dân chủ. Trên thực tế đã hình thành đội quân chính trị quần chúng rộng lớn.

Đánh giá ý nghĩa của cao tràn cách mạng 1936-1939, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hǎng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng. Nó cũng dạy chúng ta rằng: phải hết sức tránh những bệnh chủ quan, hẹp hòi v.v.."

Trong thời kỳ 1940-1945, Đảng nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo kết hợp một cách khéo léo giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, coi nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và được rải ra thực hiện từng bước.

Đảng chỉ rõ: "trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi bộ phận của giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được". Trong giai đoạn hiện tại nếu không đánh đuổi được Nhật -- Pháp thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được"

Tập trung mũi nhọn đấu tranh đánh đổ đế quốc phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai, thực hiện mục tiêu chủ yếu là giải phóng dân tộc, song Đảng không quên nhấn mạnh, cách mạng vẫn mang tính chất dân tộc dân chủ, nghĩa là không được tách rời hai nhiệm vụ chiến lược mà phải coi đánh đổ đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến là nhiệm vụ khǎng khít, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ không thể tách rời. Nhưng, không tiến hành song song nhất loạt ngang nhau.

Tập trung giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc không phải là Đảng thủ tiêu vấn đề đấu tranh giai cấp và bỏ nhiệm vụ điền địa, cũng không phải lùi một bước mà chỉ bước một bước ngắn hơn, để có sức mà bước một bước dài hơn. Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất mà thay bằng khẩu hiệu tịch ký ruộng đất của đế quốc Pháp và của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, tức là chưa đánh vào toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến. Đây là một chủ trương khôn khéo, nhằm tập trung lực lượng giải quyết nhiệm vụ chủ yếu Chủ trương đó nhằm tạo ra sức mạnh to lớn, tập hợp đồng đảo các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, đồng thời củng cố khối liên minh công nông thêm vững chắc.

2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả nâng đấu tranh của các tầng lớp, giai cấp

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tổ chức. Đảng hiểu rằng, sức mạnh của cách mạng bắt nguồn từ sức mạnh của quần chúng, mà sức mạnh của quần chúng phải là hành động tự giác có tổ chức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công". Chỉ thị về công tác to chức của Ban chấp hành trung ương Đảng (ngày 1-2-1941) chỉ rõ: "Biết tổ chức thì dù bọn phátxít quỷ quyệt, tàn nhẫn đến đâu cũng không làm gì nổi. Biết tổ chức tức là có thêm cán bộ, có vũ khí có tài chính, có chiến đấu lực, tất cả những điều kiện cần thiết cho cuộc cách mạng dân tộc giải phóng".

ở mỗi thời kỳ lịch sử, do mục tiêu đấu tranh, trình độ quần chúng, đối tượng cách mạng, lực lượng đối sánh, đặc điểm thời cuộc mà có những hình thức tổ chức thích hợp.

Thời kỳ 1936-1939, Đảng chủ trương: phải rất linh hoạt, khôn khéo trong việc tổ chức quần chúng, không cứng nhắc, không nhất thiết các tổ chức quần chúng đều phải mang một màu sắc, đều phải nhuộm màu đỏ như công hội đỏ, hội cứu tế đỏ mà có thể lấy những cái tên đơn sơ, cốt sao tập hợp được đồng đảo quần chúng vào các tổ chức cách mạng. Đảng quyết định lấy tên Thanh niên phản đế đoàn thay Thanh niên cộng sản đoàn, lập Hội cứu tế bình dân thay Hội cứu tế đỏ, lấy tên Công hội thay Công hội đỏ và lấy tên Nông hội thay Nông hội đỏ

Đảng và quần chúng sáng tạo ra các hình thức tổ chức phổ thông gắn liền với đời sống sinh hoạt bình thường hàng ngày như hội cấy, hội gặt, hội lợp nhà, hội hiếu hỉ, phường đi sǎn, hội hát kịch v.v.. Những hình thức tổ chức "biến tướng" đó thích hợp với nhân dân ta ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, mọi quyền tự do dân chủ bị kẻ thù bóp nghẹt và nhất là nhân dân vừa trải qua một thời kỳ bị kẻ thù đàn áp đẫm máu. Do đó, nhiều hình thức tổ chức vừa làm, sát hợp với quần chúng, nên đã lôi kéo được đồng đảo quần chúng tham gia vào các phong trào đấu tranh công khai, bán công khai, rầm rộ, sôi nổi hiếm thấy dưới thời Pháp thống trị và hiếm có ở một nước thuộc địa.

Việc tổ chức quần chúng phải có nhiều hình thức thích hợp với từng giai cấp, tâng lớp nhân dân và từng lứa tuổi. Thông thường, quần chúng có ba loại: tiên tiến, trung bình, chậm tiến, lại còn có sự khác biệt về giai cấp, tôn giáo, dân tộc, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp ... Cho nên, ngoài các đoàn thể cứu quốc, Đảng còn tổ chức nhiều đoàn thể đơn sơ, không điều lệ, công khai hoặc nửa công khai để thu hút đông đảo dân chúng.

Trong khi tổ chức đảng hết sức chặt chẽ, thì tổ chức quần chúng phải hết sức rộng rãi, nhẹ nhàng, thậm chí có khi không thành hình thức tổ chức; phải biết tận dụng mọi khả nǎng hợp pháp, nửa hợp pháp, dù là đơn sơ, nhỏ hẹp. Phải biết nắm lấy mọi hoạt động của xã hội, kể cả các tổ chức do thực dân Pháp lập ra, các hoạt động vǎn hoá, kinh tế trong sinh hoạt hàng ngày của quân chúng để tập hợp quần chúng đồng đảo và che giấu tổ chức không hợp pháp. Từ cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ cụ thể hàng ngày mà tập hợp quần chúng, từng bước đưa quần chúng tham gia phong trào cách mạng.

Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm, Đảng lại có những hình thức tổ chức mới cao hơn. Để khích lệ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, các đoàn thể quần chúng đều có tên chung "cứu quốc" như Thanh niên cứu, quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, v.v..

Tìm tòi, chọn lựa các hình thức tổ chức vừa tầm, thích hợp với quần chúng, đồng thời còn phải phù hợp với hoàn cảnh khách quan, mới có khả nǎng thu hút đông đảo quần chúng đấu tranh cho mục tiêu đã định.

Trong những nǎm 1930-1935, hình thức mặt trận mà Đảng lựa chọn là Hội phản đế đồng minh. Thời kỳ 1936-1939 là Mặt trận dân chủ. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tân thứ tám (tháng 5-1941) quyết định một hình thức mặt trận mới thay Mặt trận dân chủ, đó là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.

Mặt trận Việt Minh được thành lập theo chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Lúc này, Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể trước mắt không còn là đấu tranh đòi những quyền lợi dân sinh, dân chủ đơn sơ, mà là chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc. Vì nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết, thống nhất đánh đuổi Nhật - Pháp, trừ khử Việt gian

Mặt trận dân chủ rõ ràng không còn thích hợp với mục tiêu đấu tranh trong thời kỳ mới, cần có một hình thức mặt trận phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, nhằm liên kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu-nghèo, già-trẻ, gái-trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn.

Mặt trận Việt Minh đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chung của toàn dân tộc, là cơ sở quyết định quy tụ cả cộng động dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất, đánh đổ ách thống trị của phátxít Nhật - Pháp và bọn tay sai.

3. Kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã khẳng định, cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng phương pháp cách mạng bạo lực, lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng.

Chủ tịch Hô Chí Minh nói: "Muốn có đội quân võ trang phải có đội quân tuyên truyền, vận động, đội quân chính trị trước đã. Nên việc này phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Như ở ta muốn đánh Pháp - Nhật thì ai vác súng? Ai là người tự nguyện, tự giác vác súng? Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện vác súng thì mới thắng được"

Thực tiễn cuộc vận động giải phóng dân tộc cho thấy bắt đầu từ xây dựng lực lượng chính trị, trên cơ sở lực lượng chính trị mà xây dựng lực lượng vũ trang. Khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu, yêu cầu phải đẩy cuộc đấu tranh lên hình thức cao để hỗ trợ cho công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, từ các đoàn thể, các tổ chức chính trị quản chúng, đã hình thành các đội tự vệ chiến đấu, các tổ du kích chiến đấu, hình thức sơ khai của lực lượng vũ trang.

Các đội tự vệ công nông đầu tiên trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, các đội Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, du kích Ba Tơ... đều từ lực lượng chính trị của quần chúng, từ nhân dân được giác ngộ, có tổ chức mà ra.

Trong xây dựng lực lượng, Đảng coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhưng không tuyệt đối hoá vai trò của nó, không đặt vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang lớn ngay từ đầu mà trước hết xây dựng lực lượng chính trị, kết hợp đúng đắn xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang đáp ứng nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Thời kỳ 1939-1945, trước nguy cơ phátxít và chiến tranh xâm lược của phátxít Nhật, Pháp, để chuẩn bị đón thời cơ, Đảng lấy việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng làm cơ bản. Thông qua các phong trào đấu tranh của quần chúng, các đoàn thể và mặt trận, một lực lượng chính trị quần chúng đồng đảo đã hình thành, đồng thời trên cơ sở đó mà từng bước xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng.

Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ sáu (tháng 11-1939) chủ trương thành lập các đội tự vệ chiến đấu: "Đội tự vệ phải to rộng, đủ dũng cảm và điềm tĩnh, khôn khéo và hy sinh bảo vệ quần chúng". Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ bảy (tháng 11-1940) chỉ rõ: "Mặt trận phải trực tiếp võ trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mạng quân".

Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5-1941) chủ trương mở rộng các tổ chức cứu quốc và thành lập những tiểu tổ du kích chiến đấu. Cuối nǎm 1941, đồng chí Nguyễn ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang Cao Bằng để thúc đẩy việc xây dựng cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng 12-1944, Đảng chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời trên cơ sở những đội du kích nhỏ hoạt động từ trước ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Mặc dù hình thức là đội quân vũ trang, hoạt động tác chiến, nhưng Đảng chỉ rõ phương châm và nhiệm vụ hoạt động của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến.

Sau ngày đảo chính Nhật - Pháp, Đảng cho rằng tình thế lúc này đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên và cần kíp, do đó quyết định phát triển lực lượng vũ trang và thống nhất Việt Nam cứu quốc quân với Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân.

Khi tiến lên khởi nghĩa từng phần, đi đôi với việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, Đảng đã nhanh chóng phát triển lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng, thúc đẩy mạnh mẽ cao trào cách mạng trong cả nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.

Tháng Tám nǎm 1945, trong lúc lực lượng vũ trang nhân dân còn non trẻ, Đảng đã huy động được một lực lượng chính trị quần chúng lớn mạnh, bao gồm hàng triệu hội viên cứu quốc và hàng chục triệu đồng bào dưới khẩu hiệu hành động của Mặt trận Việt Minh, tạo thành lực lượng chủ yếu quyết định thắng lợi của tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.

Cách mạng Tháng Tám thành công là do biết kết hợp chật chẽ lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong đó lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng giữ vai trò chủ yếu.

Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã tạo ra ưu thế áp đảo quân thù, giành thắng lợi nhanh, gọn trong Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945.

4. Xây dựng và bố tri lực lượng đều khắp trên các địa bàn nông thôn và thành thị

Đảng ta sớm nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của các địa bàn chiến lược, coi trọng cả nông thôn và thành thị, chú ý xây dựng lực lượng ở cả nông thôn và thành thị. Trong đấu tranh cách mạng, nhất là trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, vấn đề xây dựng lực lượng, bố trí lực lượng trên các địa bàn, kết hợp phong tràn đấu tranh của nông dân ở nông thôn với phong trào của công nhân, trí thức, học sinh, thợ thủ công và buôn bán nhỏ ở thành thị để tiến hành khởi nghĩa toàn dân, kịp thời cơ thuận lợi là một vấn đề quan trọng. Trong đường lối cũng như chỉ đạo thực tiễn phong trào, chứng tỏ Đảng ta đã giải quyết tốt vấn đề xây dựng và bố trí lực lượng bảo đảm cho Cách mạng Tháng Tám thành công.

Đảng hiểu rằng, nông thôn đồng bằng là nơi tiếp giáp với thành thị, hơn 90% dân số là nông dân sống chủ yếu ở đây.

Do bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, nông dân rất tha thiết với nền độc lập của đất nước và có ruộng đất cấy cày. Đây là nơi bộ máy thống trị của địch yếu hoặc tương đối yếu và có nhiều sơ hở.

Khởi nghĩa của ta là khởi nghĩa toàn dân, việc tổ chức lực lượng và phát động nhân dân đồng bằng đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng.

Thành thị là nơi tập trung giai cấp công nhân, giàu tinh thần cách mạng, có đồng đảo nhân dân lao động, học sinh, trí thức tiến bộ là những tầng lớp có tinh thần yêu nước cao.

Thành thị là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, vǎn hoá, là nơi tập trung các cơ quan đầu não và bộ máy thống trị của địch.

Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, đặc biệt là công tác vận động công nhân và trí thức. Nếu không chú trọng công tác trên đây thì khởi nghĩa khó nổ ra ở trung tâm đầu não của quân thù và do đó không làm cho chúng bị tê liệt. Không xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị thì cuộc khởi nghĩa khó phát triển lên thành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc

Từ cuối nǎm 1939, tuy chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, Đảng vẫn không xem nhẹ công tác ở thành thị. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ tám (tháng 5-1941) nêu rõ: "Muốn có một lực lượng toàn quốc đủ sức phát động và bảo đảm cho một cuộc khởi nghĩa thắng lợi thì đi đôi với việc mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có, phải chú trọng mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền"

Từ đó, công tác vận động cách mạng ở thành thị ngày càng được tǎng cường, đặc biệt trong công nhân và trí thức. Nghị quyết Ban thường vụ trung ương Đảng (tháng 2-1943) chỉ rõ: "Không làm cho thợ thuyền tích cực tham gia khởi nghĩa thì: Cuộc khởi nghĩa khó nổ ra ở những nơi huyết mạch của quân thù (thành phố, vùng mỏ, đồn điền, đường vận tải cốt yếu), do đó quân thù không bị tê liệt.

- Cuộc khởi nghĩa có tính chất địa phương, eo hẹp, không lan rộng ra toàn xứ cho tới toàn quốc, như thế quân thù có thể tập trung lực lượng vào một vài nơi đàn áp quân khởi nghĩa".

Chính nhờ ra sức xây dựng cơ sở, lực lượng và cǎn cứ địa ở nông thôn, đồng thời chú trọng xây dựng cơ sở và lực lượng ở thành thị, nên khi thời cơ đến, Đảng đã phát động được toàn dân ở cả thành thị và nông thôn cùng nổi dậy, nhanh chóng giành được chính quyền trên cả nước trong những ngày tháng Tám nǎm 1945.

5. Gắn xây dựng lực lượng với đấu tranh, thông qua đấu tranh để củng cố, phát triền lực lượng

Xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, không thể tiến hành ngoài vòng đấu tranh đó.

Xây dựng lực lượng và đấu tranh có mối quan hệ tác động biện chứng. Xây dựng lực lượng để đấu tranh và đấu tranh đúng mức, vừa sức bảo đảm thắng lợi, gìn giữ và phát triển được lực lượng để đấu tranh mạnh mẽ hơn, giành thắng lợi lớn hơn.

Trong điều kiện ban đầu, Đảng còn ít kinh nghiệm, lực lượng đảng viên còn mỏng, quần chúng chưa được tổ chức chặt chẽ, rộng khắp đã vội đẩy phong trào lên quá mức, bộc lộ lực lượng thì cách mạng không tránh khỏi tổn thất. Phải xây dựng lực lượng đến mức nhất định thì tiến hành đấu tranh mới có kết quả. .

Đảng và lãnh thụ Nguyễn ái Quốc đánh giá cao tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh trong cao trào 1930-1931, nhưng cũng đã dự đoán chính quyền Xôviết sẽ không duy trì được lâu vì lực lượng còn non yếu, chưa đều khắp, vũ trang bạo động trong một vài địa phương là quá sớm. Đồng chí Nguyễn ái Quốc chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của Đảng và phong trào nông dân nước ta là: "Tập hợp, tồ chức trung, bần nông và kích động họ đấu tranh giành lấy chủ quyền của nhân dân, chứ không phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa địa phương". Phải lựa chọn cho phong trào quần chúng những hình thức đấu tranh phù hợp với điều kiện và khả nâng lực lượng cách mạng cho phép.

Vừa tổ chức vừa đấu tranh, đấu tranh để rèn luyện, củng cố tổ chức là hai mặt thống nhất của quá trình xây dựng, phát triển lực lượng, tổ chức quần chúng đấu tranh. Nhấn mạnh mặt tổ chức, coi nhẹ mặt đấu tranh và ngược lại, hoặc tách rời nhau đều là sai lầm. Trong xây dựng lực lượng và tiến hành đấu tranh có lúc, có nơi Đảng mắc sai lầm "hữu" hoặc "tả" cả hai khuynh hướng đó đều có hại cho phong trào.

Từ Hội nghị trung ương Đảng tháng 10-1930, Đảng đã phân tích, phê phán khuynh hướng lệch lạc cho rằng củng cố tổ chức rồi mới đấu tranh, chờ hết khủng bố rồi mới hoạt động, đồng thời vạch rõ, chỉ có thông qua đấu tranh hàng ngày mới phát triển được cơ sở, rèn luyện và thanh lọc được hàng ngũ, chấn chỉnh được tổ chức. "Tổ chức ra để có sức tranh đấu tranh đấu để mở rộng, kiên cố tổ chức, kiên cố tổ chức để mở rộng tổ chức nữa, tổ chức và tranh đấu hết sức mật thiết liên kết cùng nhau, đồng phát triển với nhau, cái này rời cái kia thì không được gì hết". Đảng còn nói rõ rằng, tổ chức để tranh đấu, nhưng chính trong sự tranh đấu mà phát triển tổ chức. "Cho nên sự tranh đấu quần chúng với công việc tổ chức thiệt mật thiết liên lạc, không thể rời ra được".

Thực tiễn ba cao trào cách mạng là quá trình kết hợp đấu tranh với xây dựng lực lượng, thông qua đấu tranh mà Đảng ta ngày càng trưởng thành, lực lượng cách mạng ngày càng phát triển. Cao trào dân chủ 1936-1939 là bước phát triển mới trong việc xây dựng, tập hợp lực lượng cách mạng. Đảng đề ra những hình thức đấu tranh vừa sức, vừa tầm, phù hợp với trình độ quần chúng và khả nǎng lực lượng cho phép. Đồng thời qua đấu tranh, Đảng được mở rộng, củng cố, phát triển lực lượng. Đấu tranh nhưng vẫn bảo tồn, gìn giữ được lực lượng, tránh tổn thất, tiêu hao lực lượng, mà lại đạt kết quả cao.

Trong khi xây dựng lực lượng, không được thủ tiêu đấu tranh, Đảng phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh mạnh mẽ, nhưng chủ yếu là để tập dượt quần chúng, chuẩn bị cho khởi nghĩa, giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi và bản đảm thành công.

III- KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN

1. Dự đoán đúng thời cơ và hành động kiên quyết, đúng lúc


Đảng ta hiểu rằng, thời cơ là sự kết hợp hàng loạt nhân tố chủ quan và khách quan đã đến độ chín muồi, rằng thời cơ không phải tự nó đến, một phần lớn do ta sửa soạn nó, thúc đẩy nó. Chính vì vậy, Đảng đã bền bỉ và công phu chuẩn bị tinh thần và lực lượng trong suốt mười lǎm nǎm.

Đảng chǎm chú theo dõi, phân tích sâu sắc sự phát triển của tình hình, dự đoán các khả nǎng, chủ động đối phó với mọi tình huống.

Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đã có những dự đoán về thời cơ khởi nghĩa. Từ dự đoán ban đầu đó, dựa vào phân tích tình hình thế giới, chiều hướng phát triển của chiến tranh, tiền đồ cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương, Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lân thứ 8 (tháng 5-1941) nêu rõ: "Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công... Tất cả các điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển và rồi đây lực lượng sẽ lan rộng ra toàn quốc để gãy một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc rộng lớn" .

Hội nghị còn nêu lên bốn nhân tố của thời cơ chín muồi cho cuộc khởi nghĩa là:

"1. Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc.

2. Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy sinh bước vào con đường khởi nghĩa.

3. Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực điểm vừa về kinh tế, chính trị lẫn quân sự

4. Những điều kiện khách quan tiện lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Trung Quốc đại thắng quân Nhật. Cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp - Nhật sôi sục và nhất là quân Trung Quốc hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương".

Từ nǎm 1942, trong bốn khả nǎng, Đảng nhận định khả nâng Liên Xô chiến thắng phátxít Đức - Nhật là quan trọng nhất, là thời cơ tốt nhất và xác định "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.

Tháng 9-1944, Đảng đã dự kiến rằng, mâu thuẫn Nhật - Pháp sẽ dẫn tới Nhật đào chính lật đổ Pháp, và chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng: "Hãy mài gươm, lắp súng khi quân Nhật - Pháp bắn nhau, kịp nổi dậy tiêu diệt chúng giành lại giang sơn"

Tháng 10-1944, đồng chí Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc. Bức thư nêu rõ: "Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một nǎm hoặc nǎm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!". Đến Hội nghị Thường vụ trung ương Đảng tháng 3-1945, dự đoán của Đảng ta về thời cơ cách mạng cụ thể, rõ ràng và chính xác hơn. Đảng cho rằng, cuộc đảo chính Nhật - Pháp làm cho cuộc khủng hoảng chính trị thêm sâu sắc. Tuy vậy, những điều kiện khởi nghĩa chưa thật chín muồi. Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Ba cơ hội tốt đó là:

a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).

b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).

c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật).

Đảng dự kiến ba trường hợp, tạo thời cơ cho cách mạng bùng nổ: l) Cách mạng Nhật bùng nổ. 2) Nhật mất nước. 3) Quân Đồng minh vào Đông Dương.

Đảng đặc biệt chú ý trường hợp quân Đồng minh vào Đông Dương, phải tính toán rất chu đáo khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật không phải là ta có thể phát động tổng khởi nghĩa ngay tức khắc. Quân đồng minh vào, mà ta khởi nghĩa ngay, có thể: Nhật chưa thật lúng túng, nó có thể tiến hành đàn áp. Quân Anh, Mỹ là quân đế quốc khi đổ bộ vào ta khởi nghĩa, nó có thể dừng lại cho Nhật tiêu diệt cách mạng rồi mới tiến quân. Mượn Nhật diệt cộng sản, rồi tiến tới tiêu diệt Nhật, lập chính phủ bù nhìn tay sai.

Tháng 8-1945, tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương chín muồi nhanh chóng. Phong trào chiến tranh du kích ở các chiến khu với phong trào quần chúng ở nông thôn và thành thị kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo nên một không khí sục sôi cách mạng. Đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng. Lực lượng hậu bị đã sẵn sàng theo đội tiên phong. Trước đây, tầng lớp trung gian còn lửng chừng, do dự trước lời kêu gọi của Việt Minh vì tưởng Nhật còn mạnh, nay nói chung đều ngả theo cách mạng.

Mùa thu nǎm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, đã tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. ở Đông Dương quân đội Nhật hoang mang, tê liệt. Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật lập ra bị nhân dân oán ghét đã hoảng hốt, một số bộ trưởng xin từ chức.

Một điều kiện khách quan nữa thúc đẩy cuộc tổng khởi nghĩa phải tiến hành gấp rút là việc quân Anh, Mỹ sẽ vào Đông Dương để tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Như vậy, số phận của nước ta sẽ như thế nào khi kẻ xâm lược cũ vừa thua nhưng còn đó, thì bọn đế quốc mới với danh nghĩa pháp lý quốc tế sắp nhảy vào. Điều đó, đòi hỏi cách mạng phải chạy đua gấp rút với quân Anh, Mỹ để tránh trường hợp bất lợi cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.

Trong tình hình vô cùng khẩn cấp, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang). Sau khi phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi để cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi. Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

Nắm vững thời cơ, kịp thời chớp thời cơ để phát động toàn dân khởi nghĩa là cả một nghệ thuật, mà tuyệt diệu nhất là chọn đúng lúc, đúng nơi, tập trung toàn lực giáng đòn quyết định vào kẻ thù.

Thời cơ của cuộc Cách mạng tháng Tám xuất hiện vào lúc cao trào chống Nhật, cứu nước lên đến đỉnh cao, khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, bọn phátxít Nhật đã bị bại trận, chính quyền bù nhìn tay sai tan rã, quân Anh, Mỹ và chư hầu chưa kịp đến. Chính lúc đó, Đảng ta đã kiên quyết phát động toàn dân nổi dậy đập tan bộ máy thống trị của đế quốc và phong kiến, lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Thời cơ "nghìn nǎm có một" của Cách mạng tháng Tám được chọn chính xác, nổ ra đúng lúc. Đó là một thành công lớn trong nghệ thuật lãnh đạo Cách mạng tháng Tám của Đảng ta.

2. Khởi nghĩa phải đưa vào cao trào cách mạng của toàn dân.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, khởi nghĩa là công việc chung của toàn dân, không phải riêng của Mặt trận Việt Minh hay của Đảng. Việc cứu nước, giải phóng dân tộc là việc chung của toàn dân, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm, người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, ngươi có tài nǎng góp tài nǎng.

Chỉ có như vậy mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp to lớn của toàn dân tộc, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, giành chính quyền về tay nhân dân.

Đó là những quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hô Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang. Dựa vào cao trào cách mạng phát động toàn dân nổi dậy, nổi dậy bằng tất cả các lực lượng, bằng tất cả các hình thức đấu tranh của nhân dân để đánh đổ chính quyền đế quốc, phong kiến. Lực lượng vũ trang là rất quan trọng không thể thiếu trong cuộc khởi nghĩa, nhưng thắng lợi của khởi nghĩa phải là kết quả nổi dậy của toàn dân kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng.

Quan điểm khởi nghĩa toàn dân của Đảng được thể hiện tập trung trong cuộc Cách mạng tháng Tám. Nhưng thực tế đã được quán triệt trong quá trình chuẩn bị. Đảng ta đã ra sức tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của phương thức tiến hành khởi nghĩa toàn dân của Đảng. Nó càng làm sáng tỏ thêm nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về điều kiện thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang. Muốn thắng lợi, khởi nghĩa vũ trang không được dựa vào một âm mưu, một chính đảng mà phải dựa vào giai cấp tiên phong, dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân, vào bước ngoặt quyết định trong lịch sử của cuộc cách mạng.

3- Khởi nghĩa từng phần giành chính quyền địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc

Từ nhận định, sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, phátxít Nhật là kẻ thù chính và cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương, Đảng quyết định phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Phương thức đấu tranh của thời kỳ này là: khởi nghĩa từng phần, chiến tranh du kích cục bộ, mở rộng cǎn cứ địa, thành lập chính quyền cách mạng ở những nơi có điều kiện, đẩy mạnh phong trào quần chúng, đặc biệt là phong trào phá kho thóc chống đói. Phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần diễn ra sôi nổi ở vùng thượng du, trung du Bắc Bộ.

ở Việt Bắc, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã phối hợp với nhân dân nổi dậy giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

ở Bắc Giang, nhân dân nổi dậy thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng và đội du kích Bắc Giang.

ở Quảng Ngãi, được tin Nhật đảo chính, một số đảng viên đang bị giam trong các trại ở Ba Tơ đã họp chi bộ quyết định khởi nghĩa, chiếm đồn Ba Tơ, thành lập đội du kích Ba Tơ.

Trên thực tế, nhiều nơi lúc đó đã hình thành hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền phản động tay sai của phát xít Nhật và chính quyền của nhân dân ở khu giải phóng và ở các địa phương đã nổi dậy.

Khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện trong lịch sử đấu tranh giai cấp và dân tộc từ xưa đến nay. Điều khó khǎn là làm thế nào giữ vững và phát huy thắng lợi của khởi nghĩa từng phần để tiến lên tổng khởi nghĩa. Đảng gắn liền khởi nghĩa từng phần với tổng khởi nghĩa, có nghĩa là trong điều kiện cả nước đang tích cực chuẩn bị tổng khởi nghĩa mà tiến hành khởi nghĩa từng phần. Ngược lại, tổng khởi nghĩa chỉ có thể giành được thắng lợi trên cơ sở một cao trào cách mạng của nhân dân, cao trào đó được phát động bởi nhiều yếu tố, trong đó có ảnh hưởng của các cuộc khởi nghĩa từng phần.

Sáng tạo của Đảng ta là đã vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công vấn đề thời cơ khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và thời cơ tổng khởi nghĩa ở cả thành thị và nông thôn. Trong tình hình rất phức tạp, Đảng ta đánh giá đúng lực lượng so sánh địch - ta trong từng địa phương cũng như trong cả nước, đánh giá đúng xu thế phát triển của tình hình và trên cơ sở phát huy cao độ sự cố gắng chủ quan, đã ra sức lợi dụng những điều kiện khác quan thuận lợi, sáng tạo thời cơ và mau lẹ chớp thời cơ để lãnh đạo quần chúng vùng lên đưa cuộc Cách mạng tháng Tám thành công nhanh chóng.

Nguồn: Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.798.022
Truy câp hiện tại 4.689