TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng – Khởi sắc từ nội lực.
Ngày cập nhật 20/07/2023

Bài 3

Ngoại giao tiên phong phục vụ phát triển bền vững, tự lực, tự cường

 

Chủ động đi trước mở đường tìm ra những nguồn lực mới cho phát triển đất nước, sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng.

Phóng viên (PV) Báo Quân đội nhân dân Điện tử đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ.

PV: Đại hội XIII đánh dấu bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng khi lần đầu tiên xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại. Điều này đã được thể hiện như thế nào trong nửa đầu nhiệm kỳ vừa qua, thưa ông?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Bối cảnh tình hình mới cùng kết quả hội nhập và phát triển quan hệ quốc tế của Việt Nam đã khẳng định sự đúng đắn tư duy ngoại giao tiên phong mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Theo đó, ngoại giao tiên phong trước hết phải đi trước và chủ động, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho hoà bình, hợp tác và phát triển. Điều này là vô cùng cần thiết, bởi có môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi đã giúp chúng thực hiện thành công đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, một nhiệm rất quan trọng khác của đối ngoại là phải tranh thủ thêm nguồn lực ở bên ngoài phục vụ cho sự phát triển, xây dựng đất nước, như Đại hội XIII đã chỉ ra là phải phát triển ở tầng nấc cao hơn, nhằm thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 và 2045. Đồng thời, đối ngoại tiên phong là phải nâng cao vị thế của mình, để bạn bè quốc tế hiểu và tin cậy Việt Nam hơn.

Nhìn lại hai năm rưỡi kể từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, chúng ta đã gặp phải rất nhiều thách thức về đối ngoại, như cạnh tranh nước lớn, đại dịch Covid-19 bùng phát khiến các nước phải đóng cửa, rồi vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu, khủng hoảng, xung đột… Trong bối cảnh đó, đối ngoại của Việt Nam đã làm được rất nhiều việc đáng ghi nhận.

Đầu tiên phải kể đến là cùng với những nỗ lực trong nước, chúng ta đã tranh thủ được hợp tác quốc tế, sự trợ giúp từ bên ngoài mà tiêu biểu là “ngoại giao vaccine” để ngăn chặn và cơ bản vượt qua được đại dịch.

Thứ hai, trong thời điểm khó khăn do dịch bệnh, dù gặp phải những vấn đề về phong toả trong và ngoài nước, nhưng chúng ta vẫn duy trì được chuỗi cung ứng, gắn chặt với nền kinh tế thế giới và khu vực, đến khi kiểm soát được dịch bệnh thì tiếp tục “bung ra”, khôi phục hoạt động kinh tế, xã hội, nối lại được chuỗi cung ứng.

Thứ ba, tính tiên phong của ngoại giao còn thể hiện ở việc nhanh chóng thích ứng, linh hoạt kết hợp các hình thức trực tuyến và trực tiếp cho các hoạt động song phương, đa phương và quốc tế.

Mặt khác, chúng ta tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với các đối tác. Nửa nhiệm kỳ vừa qua đã diễn ra nhiều chuyến thăm giữa lãnh đạo nước ta với lãnh đạo các nước trong khu vực, châu Âu đến Bắc Mỹ và Mỹ Latinh. Các chuyến thăm đó vừa thể hiện sự chủ động thúc đẩy quan hệ đối ngoại khi điều kiện kiểm soát dịch đã được bảo đảm, vừa chứng tỏ các nước vẫn cần chúng ta, và chúng ta có thể tiếp tục mở rộng được quan hệ hợp tác. Trên thực tế, quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, bao gồm các nước ASEAN và các nước chủ chốt khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Austraylia, được đẩy mạnh theo cả chiều rộng và chiều sâu, có những mối quan hệ được nâng lên tầm cao mới.

Chúng ta không chỉ phục hồi hoạt động sản xuất, mà còn kịp thời mở rộng các quan hệ hợp tác và hội nhập quốc tế. Một loạt các biện pháp đã được triển khai để tập trung phát triển kinh tế. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao và các cấp đều đề cập đến việc phục hồi chuỗi cung ứng, tiếp tục mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác đầu tư, Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các nước… Điểm mấu chốt trong các chuyến thăm, tiếp xúc là chúng ta đã kịp thời chuyển hướng và tranh thủ được một cách mạnh mẽ các nguồn lực hợp tác. Trong tranh thủ các nguồn lực quốc tế, chúng ta đã tận dụng khá tốt các thoả thuận, dàn xếp thương mại đã có với các nước, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA).

Bên cạnh đó, Việt Nam đã phát huy vai trò ở các thể chế đa phương mang tầm thế giới và khu vực. Hoạt động này được kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn với mở rộng hợp tác song phương. Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò ở Liên hợp quốc (LHQ) trong các vấn đề phức tạp, mở rộng tham gia gìn giữ hoà bình, hay thúc đẩy vai trò của mình trong ASEAN, Hội đồng Nhân quyền LHQ… Tham gia xử lý các vấn đề phức tạp ở các diễn đàn quốc tế, khu vực, chúng ta đã kết hợp được quan điểm, lập trường của mình với nguyên tắc Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, cũng như trong tổng thể quan hệ chung của Việt Nam với các nước.

PV: Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Với những kết quả quan trọng như vừa nêu đã chứng minh chủ trương của Đảng đã đi vào thực tiễn, đặc biệt là tính toàn diện, hiện đại và sự kết hợp nhuần nhuyễn ba trụ cột này, thưa ông?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Đúng vậy! Đại hội XIII đã chỉ rõ ba thành tố của ngoại giao là toàn diện, hiện đại và đồng bộ. Đó là toàn diện về lĩnh vực, về cấp độ, về song phương đa phương và về khu vực địa lý. Hiện đại là dựa trên sự cập nhật về cách tiếp cận, gắn quốc gia với khu vực và quốc tế, đan xen lợi ích, tranh thủ khoa học công nghệ và chất lượng cao, bền vững. Đồng bộ là sự phối kết hợp chung các kênh đối ngoại, phối hợp trung ương, địa phương, doanh nghiệp và trong ngoài. Trên tinh thần đó, chúng ta đã triển khai hoạt động đối ngoại toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, từ tăng cường hợp tác chính trị với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, đến thúc đẩy quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ cho đến hợp tác về văn hóa, du lịch hay trao đổi, giao lưu nhân dân…

Nhìn lại các hoạt động của Việt Nam tại LHQ, ASEAN, hay những trao đổi với lãnh đạo, nhân dân các nước nhân các chuyến thăm, đều nhấn mạnh vấn đề hợp tác kinh tế, bảo đảm môi môi trường hòa bình ổn định ở khu vực và trên thế giới; cùng hợp tác xử lý những vấn đề thách thức mà không một quốc gia nào có thể tự mình làm được, như: Biến đổi khí hậu, dịch bệnh, nước biển dâng hay hòa bình an ninh ở châu Á – Thái Bình Dương; an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông…

Một biểu hiện khác của ngoại giao toàn diện trong nửa nhiệm kỳ vừa qua là chúng ta đã kết hợp tham gia tất cả các cơ chế, diễn đàn song phương và đa phương, qua đó phát huy một cách đồng bộ, toàn diện vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tính hiện đại của ngoại giao cũng được thể hiện ở nhiều điểm. Trước hết, chúng ta tiếp cận với những vấn đề của thế giới và khu vực song trùng với những thách thức đang đặt ra theo cách hiện đại, phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam cùng chia sẻ, cùng tham gia vào những cam kết như biến đổi khí hậu, giảm khí phát thải, đóng góp vào tăng cường vai trò của chủ nghĩa đa phương, LHQ, luật pháp quốc tế. Hay như hoạt động ngoại giao cấp cao cũng được chúng ta triển khai rất tích cực, đồng bộ trên ba trụ cột. Dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch, nhưng đây được coi là một trong những điểm sáng trong nửa đầu nhiệm kỳ của Đại hội XIII. Thông qua đó, lãnh đạo Việt Nam và các nước đã kịp thời đề ra quyết sách về những chương trình hành động thực sự có hiệu quả, phù hợp với lợi ích chung; tạo ra cam kết ở mức cao nhất để triển khai các hành động. Đồng thời, tạo dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế.

Một khía cạnh khác của ngoại giao hiện đại mà chúng ta đã làm được, đó là sử dụng các phương tiện, hình thức hiện đại để tham gia vào công tác đối ngoại. Các cuộc hội đàm, trao đổi trực tuyến, công nghệ số đã được sử dụng hiệu quả để tuyên truyền và quảng bá cho Việt Nam, thúc đẩy liên kết với các nước và khu vực cũng như thế giới.

Về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa 3 trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, tôi cho rằng đây là một thể thống nhất dù mỗi kênh có những hoạt động đặc thù riêng, và trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, chúng ta đã thực hiện chủ trương kết hợp này rất sáng tạo. Cùng chung nội hàm nhằm thúc đẩy những cam kết về mặt Nhà nước, chính phủ. Đơn cử như việc Tổng Bí thư đi thăm Trung Quốc đã có rất nhiều chương trình hợp tác trên các lĩnh vực; hay Thủ tướng đến các nước cũng nhấn mạnh về tôn trọng thể chế chính trị, về tăng cường trao đổi và tin cậy, lòng tin trên cơ sở tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy trao đổi văn hoá, giao lưu nhân dân…

Vì vậy, theo tôi không nên liệt kê một cách đơn thuần đâu là ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước hay đối ngoại nhân dân, bởi trong mỗi một hoạt động đối ngoại đều có mang nội hàm của cả 3 trụ cột. Trong đối ngoại, chúng ta ngày càng tạo thuận lợi và thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia vào hội nhập quốc tế. Giữa các hoạt động của Đảng, Nhà nước hay nhân dân và doanh nghiệp đều gắn kết song hành với nhau. Nhà nước tạo ra môi trường chính trị và các khuôn khổ về chính sách thuận lợi cho hợp tác của các nhà đầu tư và doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng tham gia một cách chủ động tận dụng các nguồn lợi thế đó, tranh thủ cả những chuyến thăm và thúc đẩy quan hệ để tham mưu chính sách cho Đảng và Nhà nước.

PV: Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng là định hướng bao trùm của đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Ông đánh giá thế nào về kết quả hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Việt Nam chủ trương hội nhập toàn diện, sâu rộng, đặc biệt là trên các lĩnh vực có thể phát huy hơn nữa vai trò cũng như phục vụ cho lợi ích của Việt Nam. Lợi ích mà tôi muốn nói đến ở đây là môi trường xung quanh hoà bình, ổn định, có lợi cho đất nước; tranh thủ nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Hội nhập của chúng ta đáp ứng mẫu số chung đó.

Điển hình như trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, hợp tác đầu tư và tranh thủ nguồn lực, trong nửa nhiệm kỳ vừa qua chúng ta đã đạt được những kết quả khá ấn tượng. Đầu tiên, chúng ta xử lý được những vấn đề cấp bách do đại dịch gây ra khi kết hợp song hành vừa kiểm soát dịch vừa đảm bảo ở mức có thể được cho các hoạt động kinh tế. Hoạt động đối ngoại được thực hiện ngay cả ở trong nước, như việc cộng đồng doanh nghiệp đã cùng chung tay phòng, chống dịch nhằm sớm khôi phục chuỗi cung ứng. Thứ hai, mặc dù đại dịch hoành hành, nhưng chuỗi cung ứng của chúng ta không bị tê liệt. Minh chứng là việc cách ly, phong toả vẫn triển khai, nhưng hàng hoá vẫn được lưu thông nếu điều kiện cho phép. Vì vậy, dù chuỗi cung ứng bị đứt gãy, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục duy trì được ở những mức có thể, trong đó có sự phối hợp rất chặt chẽ với các nước về vấn đề vaccine, về những quan tâm đầu tư hay lợi ích ở Việt Nam của các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài.

Thời gian qua, chúng ta đã tận dụng khá hiệu quả các thỏa thuận thương mại, các hiệp định FTA với các nước, đặc biệt là tạo lợi thế để tiếp cận những nguồn vốn, thị trường xuất khẩu. Đáng chú ý là hoạt động kinh tế, thương mại của Việt Nam với các đối tác chủ chốt, trong đó có các nước châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Bắc Mỹ, châu Âu đều được tiếp tục duy trì và thúc đẩy.

Tham gia các thỏa thuận thương mại về song phương và đa phương với các nước, đặc biệt là tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do đa phương đã tạo cho Việt Nam lợi thế trong việc duy trì chuỗi cung ứng cũng như đà kinh tế, thương mại của mình để tiếp tục phát triển.

Ngoài ra, dù hai năm rưỡi gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam đã tăng cường kết nối với ASEAN, với khu vực và các nước đối tác quan trọng khác. Việc xây dựng đường cao tốc, mở rộng các đường bay, tăng cường các đường thủy…, đều tạo thuận lợi phục vụ mục tiêu phát triển của mình.

Cũng trong nửa nhiệm kỳ vừa qua, chúng ta đã chủ động tiếp cận với những xu hướng và mô hình kinh tế mới phục vụ phát triển chất lượng cao hơn, bền vững hơn. Như bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, chúng ta đã có cam kết cấp cao và có lộ trình để thực hiện. Đi cùng với đó là những ngành kinh tế mới như kinh tế xanh, năng lượng xanh, hạ tầng xanh, đã được tích cực triển khai để tranh thủ nguồn lực bên ngoài.

Tôi được biết, các nhà đầu tư lớn ở Bắc Mỹ, châu Âu rất quan tâm đến thị trường giàu tiềm năng như Việt Nam, nhất là lĩnh vực chuyển đổi năng lượng. Hay câu chuyện chuyển đổi số, thương mại số, luôn được nhắc đến trong các chuyến thăm, trao đổi giữa lãnh đạo Việt Nam với các nước.

Thế giới thời gian qua gặp phải những thách thức về chính trị, an ninh và những khó khăn rất lớn về mặt kinh tế như lạm phát, năng lượng, kiểm soát vĩ mô… Các đối tác chủ chốt của Việt Nam cũng đang gặp khó khăn trong phục hồi, khả năng tiêu thụ của những thị trường này vì thế bị suy giảm. Tuy nhiên, bước đầu chúng ta đã khôi phục và phát huy rất tốt các chuỗi cung ứng và thoả thuận thương mại để phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Kết quả đó chính là sự chuyển hoá lợi thế quan hệ chính trị, ngoại giao tốt đẹp với các nước, các đối tác trở thành cơ hội hợp tác, lợi ích kinh tế, phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; hướng tới đưa nền kinh tế vào vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị gia tăng và cung ứng toàn cầu.

PV: Về mục tiêu đối ngoại, Đại hội XIII khẳng định “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc”, ông đánh giá thế nào về kết quả thực hiện mục tiêu này trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp vừa qua?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chủ trương nhất quán của Đảng ta trong bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc là trên cơ sở Hiến chương LHQ, luật pháp quốc tế và cùng có lợi.

Thời gian qua, chúng ta đã xử lý tốt các vấn đề chính trị quốc tế nhạy cảm, phức tạp. Trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng, Việt Nam đã duy trì mối quan hệ với tất cả các nước lớn và đối tác chủ chốt. Ngay trong ASEAN cũng đứng trước nhiều thách thức về cạnh tranh nước lớn và nhiều vấn đề phức tạp, chúng ta giữ vững vị thế của mình và cùng các nước duy trì đoàn kết, vai trò trung tâm của Khối ở khu vực.

Chúng ta đã khéo léo xử lý sự tuỳ thuộc và phân tách do khủng hoảng chính trị và cạnh tranh nước lớn gây ra, duy trì được quan hệ cả về chính trị và kinh tế với tất cả các đối tác dù giữa họ có sự cạnh tranh nhau. Chúng ta cũng đã tạo thế đan xen đa tầng nấc trong tham gia các hoạt động thương mại, kinh tế, đầu tư, trong đó có cả đàm phán ký kết các thoả thuận, hiệp định thương mại.

Về một số vấn đề phức tạp như vấn đề Ukraine, Mianmar, Biển Đông…, Việt Nam luôn nhấn mạnh các nguyên tắc của Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế; ủng hộ giải quyết hoà bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đồng thời, Việt Nam dựa trên lợi ích chung của quốc tế, khu vực và bản thân Việt Nam để giải quyết quan hệ với các nước. Hay như khi ứng xử với các sáng kiến, chiến lược khác nhau ở khu vực, mà trong đó đều đan xen những mặt thuận, có cơ hội hợp tác và cạnh tranh nhau. Những gì phù hợp với lợi ích của Việt Nam, ASEAN, Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, thì chúng ta tranh thủ và ủng hộ. Nhưng Việt Nam cũng tỏ rõ lập trường “không chọn bên”, mong muốn hợp tác với tất cả các nước để thúc đẩy lợi ích chung của khu vực là hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển; mong muốn các nước tiếp tục hỗ trợ ASEAN trong xây dựng cộng đồng, phát huy vai trò trung tâm. Chúng ta bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc; độc lập, tự chủ nhưng không đứng riêng một mình, không “bo bo” cho mình, mà chia sẻ quan điểm thượng tôn pháp luật và làm cho các bên cùng có lợi.

PV: Tựu chung sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, điều gì khiến ông cảm thấy tâm đắc nhất? Trong nửa nhiệm kỳ còn lại, ngoại giao cần làm gì để tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Đó là chủ động tiếp cận được với những cơ hội mới đan xen ngay trong thách thức, để thúc đẩy hợp tác và hội nhập, tranh thủ nguồn lực cho đất nước. Chúng ta vẫn duy trì khuôn khổ hợp tác ổn định, lâu dài với các đối tác cả về chính trị và kinh tế. Ngay trong đại dịch, nhiều nguồn lực mới đã được tiếp cận thành công phục vụ cho sự phát triển của các ngành kinh tế mới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi sạch.

Thời gian tới, chúng ta vẫn còn gặp những thách thức cả về quốc tế, trực tiếp nhất là môi trường phát triển. Việt Nam đã có chủ trương nhất quán trong xử lý các vấn đề phức tạp. Thế giới sẽ tiếp tục hình thái quan hệ đan xen cả cơ hội và thách thức, vừa tuỳ thuộc vừa phân tách. Để tranh thủ được cơ hội thì điều quan trọng là dựa trên lợi ích quốc gia, dân tộc, mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đồng thời đan xen lợi ích đa tầng nấc. Chúng ta vượt qua sức ép “chọn bên” bằng mở rộng quan hệ, đặc biệt là thúc đẩy chủ nghĩa đa phương. Mỗi đối tác đều có vị trí quan trọng để chúng ta tranh thủ cả về chính trị, an ninh và kinh tế.

“Tổ chức thật tốt các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao; chủ động, tích cực, làm sâu sắc, thực chất hơn nữa quan hệ với các đối tác; đẩy mạnh đối ngoại đa phương; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết. Triển khai thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký kết, tranh thủ tối đa lợi ích mà các hiệp định này có thể đem lại” (Phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng tai Hội nghị giữa nhiệm kỳ BCHTW Đảng khóa XIII)

PV: Ông đánh giá thế nào về kết quả và đóng góp của kênh đối ngoại quốc phòng vào thành tựu chung của ngoại giao trong nửa nhiệm kỳ qua?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Đối ngoại quốc phòng đã trở thành một bộ phận quan trọng của đối ngoại Đảng, Nhà nước. Thời gian qua, giữa các kênh đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng đã có sự phối hợp cực kỳ nhuần nhuyễn và hiệu quả, tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; thực hiện bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Một trong những điểm sáng của đối ngoại quốc phòng là công tác đối ngoại biên giới. Việt Nam đã ký kết, thực hiện hiệu quả các văn bản, thỏa thuận hợp tác với lực lượng bảo vệ biên giới các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia.

Nét đặc sắc riêng của kênh đối ngoại quốc phòng đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín và vị thế Việt Nam trong tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế, điển hình là hợp tác trong ASEAN, gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc.

Trong khi khu vực còn nhiều bất ổn, cạnh tranh, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng, đối ngoại quốc phòng đã chủ động tham gia nhiều hoạt động khu vực để tăng cường hiểu biết và lòng tin giữa các nước.

PV: Xin cảm ơn Đại sứ!

QĐND online
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 10.002.539
Truy câp hiện tại 270