Tìm kiếm
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:

 

 

Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.870.237
Truy câp hiện tại 208
"học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách hồ chí minh"
Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống tực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1946 - 1954)
Ngày cập nhật 21/01/2010

Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia dân tộc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước ta vào cuối nǎm 1946. Nền độc lập mới gình lại được 16 tháng, chính quyền chưa được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời sống xã hội chưa thật sự ổn đinh, mà dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh trên quy mô toàn quốc.

Sớm ý thức được "sự mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương", Đảng và Nhà nước ta đã tích cực, chủ động chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng đối phó với hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đồng thời làm hết sức mình để cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp không mở rộng ra cả nước.

Nhân dân ta muốn hoà bình, ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp càng lấn tới, buộc nhân dân ta phải cầm súng để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám 1945. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.

I- ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHI PHỐI TIẾN TRÌNH CUỘC KHÁNG CHIẾN

Kháng chiến toàn quốc xảy ra trong điều kiện so sánh tương quan lực lượng không có lợi cho ta. Đối tượng tác chiến của ta là đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, có trang bị tối tân, có trình độ tác chiến và chỉ huy cao - một quân đội có kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược, đã thống trị nước ta gần một thế kỷ, đội quân của một nước tư bản phát triển, có tiềm lực kinh tế, khoa học và kỹ thuật khá hiện đại. Đến cuối nǎm 1946, đội quân này gồm 10 vạn tên đã có mặt trên đất nước ta.

Hành động đánh chiếm Việt Nam và Đông Dương của thực dân Pháp nằm trong âm mưu và chiến lược phản kích toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Pháp chiếm đóng Đông Dương nhằm ngǎn chặn làn sóng cách mạng và chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam châu á. Chính vì vậy Anh, Mỹ tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp trở lại xâm lược Đông Dương và điểm mấu chốt là Việt Nam.

ở nước Pháp, giai cấp tư sản và lực lượng phản động được Mỹ giúp đỡ đang tích cực hoạt động trành giành quyền lực trên vũ đài chính trị. Trong lúc đó, lãnh tụ của Đảng xã hội Pháp từ chối hợp tác với Đảng cộng sản Pháp để giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội. Điều đó tạo cơ hội thuận lợi cho lực lượng thân Mỹ và phái chủ chiến trong Chính phủ Pháp trong việc đánh chiếm lại Đông Dương và Việt Nam bằng vũ lực. Vấn đề Đông Dương được Quốc hội Pháp thảo luận sôi nổi, đã hình thành những quan điểm và mâu thuẫn giữa phái chủ chiến và phái chủ hoà, giữa những người cộng hoà và bọn phản động thân Mỹ.

Trên đây là những điểm mạnh của phía Pháp trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng chúng cũng bộc lộ những điểm yếu không thể khắc phục được.

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế nước Pháp sa sút, quân đội thiếu hụt quân số. Trong điều kiện đó, Pháp vừa phải củng cố xây dựng đất nước, vừa phải duy trì sự thống trị và đối phó với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong khối liên hiệp Pháp. Nếu chiến tranh Việt - Pháp kéo dài thì nước Pháp sẽ khó khǎn hơn.

Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, kinh tế Việt Nam bị kìm hãm và bóc lột trong những nǎm thực dân Pháp thống trị, lại kiệt quệ hơn bởi phátxít Nhật vơ vét tài nguyên phục vụ chiến tranh xâm lược của chúng. Biểu hiện rõ nhất là trên 2 triệu người chết đói trong nǎm 1945.

Sau khi giành được độc lập bằng Cách mạng tháng Tám nǎm 1945, Nhà nước và nhân dân ta ra sức chống đói, tích cực sản xuất để ổn định đời sống nhân dân. Nhưng trong thời gian ngắn, sự nỗ lực chưa được bao nhiêu thì chiến tranh Việt- Pháp đã xảy ra.

Đến tháng 12-1946, lực lượng vũ trang của ta đã phát triển trên 8 vạn người, nhưng trang bị còn quá thô sơ, phần lớn là giáo mác, súng trường, súng kíp. Quân số phát triển nhanh, nhưng chưa được huấn luyện kỹ, cán bộ chưa được đào tạo, huấn luyện nhiều. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đánh giá quân đội ta lúc đó là: quân đội ấu thơ, thừa về lòng dũng cảm, nhưng thiếu về trang bị vũ khí, kém về tổ chức chỉ huy.

Chủ nghĩa đế quốc bao vây ta bốn phía. Chúng tìm mọi cách bưng bít và xuyên tạc tính chất của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trong khi đó, phương tiện thông tin của ta vừa yếu vừa thiếu, không có điều kiện liên lạc với bè bạn xa gần để bạn bè hiểu ta, đồng tình giúp đỡ ta trong những nǎm đâu của cuộc kháng chiến đầy khó khǎn thử thách.

Đảng ta lãnh đạo toàn dân kháng chiến, nhưng chư có kinh nghiệm nhiều, lại chưa có điều kiện tiếp cận, học tập trao đổi kinh nghiệm với các đảng và các nước anh em, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc.

Từ những khó khǎn trên, có người cho rằng, ta đánh Pháp là "châu chấu đá voi". Nhưng Đảng ta và nhân dân ta dám đánh và quyết đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, vì độc lập dân tộc, vì sự tồn vong của đất nước.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược tiếp tục sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám. Khí thế của Cách mạng tháng Tám đã thôi thúc đông đảo thanh niên tự nguyện tham gia lực lượng vũ trang. Họ chiến đấu với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", bằng sức mạnh của "cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc".

Sức mạnh của dân tộc được khơi dậy nhờ nhiều yếu tố. Đó là cuộc kháng chiến của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, có đường lối kháng chiến đúng đắn: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, phát huy truyền thống bất khuất của dân tộc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam; nhân dân ta tin tưởng vào Đảng; cán bộ, đảng viên của Đảng đã thực sự tỏ rõ tính tiên phong gương mẫu, dám đi đâu trong cuộc kháng chiến đây gian khổ, hy sinh; chính quyền nhân dân được củng cố, tiêu biểu cho ý chí chống xâm lược của toàn dân, đã huy động được sức mạnh của toàn dân, động viên được mọi tiềm nǎng của đất nước phục vụ kháng chiến. Là chính quyền của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân tổ chức cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc và lợi ích của nhân dân, nên vai trò của chính quyền cách mạng đã tạo được thế và lực ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.

Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trong điều kiện quốc tế phức tạp. Tình hình thế giới có những thuận lợi, đồng thời có những khó khǎn cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới hình thành hai phe đối lập về mặt chính trị, phát triển theo xu hướng phủ định, bài trừ nhau. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta vận động theo xu hướng phát triển đó. Sớm muộn cuộc kháng chiến của nhân dân ta sẽ nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, trước hết là các nược xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân.

Nhưng do những điều kiện lịch sử hạn chế, từ nǎm 1950 mới thật sự có điều kiện quốc tế thuận lợi trên. Từ đây cuộc kháng chiến của nhân dân ta thực sự là một bộ phận của lực lượng tiến bộ và cách mạng trên thế giới, đối lập với các thế lực đế quốc và phản động quốc tế. Những nǎm đầu, cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở trong thế bao vậy của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng, Đảng và nhân dân ta luôn xác định rằng, ta kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lá góp phần bảo vệ hoà bình thế giới, làm thất bại và đẩy lùi các thế lực gây chiến. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của Hồng quân Liên Xô đập tan chủ nghĩa phátxít; sự ra đời và trưởng thành của các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc đang phát triển, đã tạo nên nguồn sức mạnh tinh thần, cổ vũ quân và dân ta chiến đấu.

Trên cơ sở phân tích tình hình, Đảng ta thấy rằng, để đánh thắng thực dân Pháp xâm lược phải tổ chức toàn dân kháng chiến. Phương châm chỉ đạo cuộc kháng chiến là:"kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".

Chúng ta còn yếu, phải chống lại kẻ địch mạnh hơn nên "vừa đánh vừa vũ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ" phải "bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài". Đảng khẳng định: "Kháng chiến; nhất định thắng lợi", nhưng "kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân". Quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường để khắc phục những mặt yếu của ta, cũng là khoét sâu mặt yếu của địch. Vì "địch muốn dùng cách đánh mau, thắng mau. Nếu chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng, chúng sẽ thất bại" còn ta "mục đích đánh lâu dài chính là để phát huy mọi lực lượng vật chất và tinh thần, bồi bổ chỗ hơn, giảm bớt chỗ kém, để từ thế thua kém địch chuyển sang thế mạnh hơn địch, đặng giành thắng lợi cuối cùng".

II- SỰ CHỈ ĐẠO KHÁNG CHIẾN VÀ PHƯƠNG THỨC KẾT THÚC CHIẾN TRANH CỦA ĐẢNG

Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp theo phương châm đánh lâu dài và dự đoán nó sẽ phát triển theo ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Đây là một dự đoán khoa học về sự phát triển có tính quy luật của cuộc chiến giữa ta và địch trong điều kiện tương quan lực lượng còn chênh lệch, bất lợi cho ta.

Chiến tranh là một hiện tượng xã hội, sự phát triển của nó không theo đường thẳng. Chiến tranh không chỉ là sự đấu lực mà còn là sự đấu trí của con người. Sự tác động của con người làm cho tiến trình phát triển của chiến tranh có thể có những đột biến và trong nhiều trường hợp không hoàn toàn đúng với dự đoán ban đâu. Thực tế lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp đã diễn ra theo một quá trình vừa tuần tự vừa nhảy vọt, từ thấp đến cao, từ đánh nhỏ tiến lên đánh vừa và đánh lớn, từ du kích chiến lên vận động chiến và trận địa chiến, và kết hợp các phương thức tác chiến đó, đã đánh bại từng kế hoạch quân sự của địch và kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp chính trị. Sự phân đoạn của cuộc kháng chiến chỉ là tương đối, phụ thuộc vào chiến lược quân sự của Đảng ta, và diễn biến thực tế của chiến trường. Mở đầu cuộc kháng chiến là cuộc tấn công đồng loạt vào quân địch trong các thành phố và thị xã, từ thủ đô Nội đến các thành phố, thị xã. Cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở từng thành phố, thị xã đến từng đường phố, ta và địch giành giật nhau từng góc phố, từng cǎn nhà. Trong điều kiện thông tin khó khǎn, Hà Nội nổ súng đầu tiên cũng chỉ cách nơi nổ súng sau cùng là Đà Nẵng có 9 tiếng đồng hồ. Điều đó thể hiện quyết tâm "dám đánh và quyết thắng" của quân và dân ta, nhầm tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, kìm chân địch một thời gian trong phạm vi đô thị để ta chuyển nhân, vật lực ra vùng cǎn cứ, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp chiến đấu lâu dài.

Địch chiếm giữ các thành phố, thị xã, ta chủ động rút đại bộ phận lực lượng vũ trang ra khỏi các thành phố, đứng vững ở nông thôn, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.

Tháng 10-1947, địch mở đợt tấn công lên Việt Bắc, nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta, hòng kết thúc chiến tranh theo chiến thuật quân sự "tốc chiến, tốc thắng" của chúng. Địch huy động một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp (khoảng 20.000 tên), 40 máy bay và phần lớn lực lượng thuỷ quân và cơ giới tham gia chiến dịch.

Triệt để lợi dụng yếu tố địa hình thuận lợi, bộ đội chủ lực phối lực với dân quan tự vệ đã chiến đấu dũng cảm, giữ vững quyền chủ động trong từng tình huống, từng trận đánh. Nhiều trận ta đánh cho địch không kịp viện binh, không kịp rút chạy. Sau hơn 200 trận đánh, chiến dịch Việt Bắc kết thúc thắng lợi, đã phá tan kế hoạch "đánh nhanh; thắng nhanh" của địch. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp.

Sau chiến dịch đánh lên Việt Bắc thất bại, địch thay đổi kế hoạch. Từ trọng điểm đánh chiếm Bắc Bộ quay về "bình định" Nam Bộ, từ tập trung tiêu diệt chủ lực của ta sang đánh phá cơ sở quần chúng và kinh tế của ta. Địch tǎng cường "bình định" vùng chiếm đóng, rán riết xây dựng nguy quản, nguy quyền, thực hiện chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt".

Để phá kế hoạch thâm độc của địch, ta chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân. Bộ đội chủ lực được phân tán thành các đại đội độc lập và các tiểu đoàn tập trung, phát động trong quân đội phong trào luyện quân lập công. Trong nǎm 1948, quân ta đã diệt hàng trǎm đôn bốt địch bằng nhiều hình thức tập kích bất ngờ, nội ứng, bức rút và mở một số chiến dịch, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai.

Cùng với sự trưởng thành của bộ đội chủ lực, dân quân du kích được phát triển. Ta chú ý xây dựng các cǎn cứ và khu du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ cho nhân dân đứng dậy phá tề diệt ác, xây dựng chính quyền cơ sở.

Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh trong hai nǎm 1948 và 1949; đồng thời, chúng ta cũng tạo được điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc kháng chiến. Ngày 1-10-1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Nhân thắng lợi to lớn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thǎm Trung Quốc và Liên Xô.

Chuyến đi thǎm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho bè bạn xa gần hiểu ta hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Tình hình trong nước và quốc tế có những điều kiện thuận lợi cho ta chủ động mở chiến dịch Biên giới vào tháng 9-1950.

Thắng lợi của chiến dịch Biên giới đã phá vỡ phòng tuyến biên giới của địch, làm thay đổi cục diện chiến tranh. Ta đã phá thế bị bao vây, giành lại thế chủ động trên chiến trường, từ phương thức tác chiến chủ yếu là du kích chiến đã chuyển sang vận động chiến "công đồn diệt viện", từ đánh nhỏ tiến lên đánh vừa và đánh lớn giành thắng lợi lớn, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

Từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1951 ta liên tiếp mở ba chiến dịch đánh địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ba chiến dịch này tuy có giành được những thắng lợi mới, nhưng không thực hiện được ý đồ chiến lược, là làm chủ chiến trường Bắc Bộ.

Qua chiến dịch Biên giới và ba chiến dịch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, ta rút ra kinh nghiệm là phải chọn hướng và địa bàn tiến công cho đúng. Chiến dịch Biên giới ta chọn đúng hướng tiến công và đúng điểm tiến công địch nên giành được thắng lợi lớn, thực hiện đúng ý đồ chiến lược. Nếu ta chọn hướng tiến công về đồng bằng Bắc Bộ là đụng đầu với lực lượng mạnh của địch, trong khi đó bộ đội ta chưa có kinh nghiệm tác chiến lớn ở đồng bằng. Rút kinh nghiệm, Đảng chỉ đạo "tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu của địch". Như vậy, hướng tiến công là vấn đề có vị trí rất quan trọng trong chỉ đạo chiến tranh, đặc biệt hướng tiến công chiến lược. Nếu chọn đúng hướng tiến công thì một lực lượng nhỏ cũng đạt hiệu quả tác chiến lớn, "một mũi kim tác động như một thanh kiếm".

Sau thất bại ở Biên giới, địch có khó khǎn. Nhưng được sự viện trợ của Mỹ, chúng vạch kế hoạch mới mang tên Đơ-lát Đờtátxi-nhi để đối phó với ta nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược.

Thực hiện kế hoạch Đơ-lát Đờ-tát-xi-nhi, địch tập trung lực lượng cơ động chiến lược lớn mở chiến dịch Lô-tuýt đánh chiếm Hoà Bình, nhằm tiêu diệt lực lượng ta, dựng lại hành lang Đông - Tây, chặn đường tiếp tế của ta từ Việt Bắc đi các chiến trường và tái lập xứ Mường tự trị thấy rõ ý đồ của địch, Trung ương Đảng ra chỉ thị nhằm phá tan cuộc hành quân này. Sau ba đợt chiến đấu từ ngày 25-11-1951 đến ngày 23-2-1952, chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi. Chiến thắng Hoà Bình và các chiến trường vùng sau lưng địch đã tạo ra các vùng giải phóng liên hoàn ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, làm phá sản ý đồ của địch hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Sau 7 nǎm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bị thất bại liên tiếp, các kế hoạch quân sự theo nhau phá sản. Nhưng với bản chất ngoan cố của kẻ xâm lược, chúng cố tìm "lối thoát danh dự" bằng thắng lợi quân sự. Được sự viện trợ tối đa của Mỹ, thực dân Pháp vạch kế hoạch Na-va khá tỉ mỉ, với quy mô rộng lớn. Kế hoạch Na-va thực sự là một âm mưu chính trị và quân sự của liên minh Mỹ - Pháp chống phá cách mạng Việt Nam và Đông Dương. Kế hoạch Na-va nhằm "giành thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh".

Tháng 9-1953, Bộ chính trị thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Phương châm chiến lược là tập trung lực lượng tiến công vào các hướng chiến lược nơi địch yếu, đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ vùng tự do. Hướng tiến công chính là Tây Bắc và Thượng Lào.

Ngày 6-12-1953, Bộ chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch, quyết định tiêu diệt cǎn cứ này trong hình thái phòng ngự kiên cố của nó.

Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm thất bại kế hoạch Na-va, đập tan ý chí xâm, lược của địch, buộc chúng phải đi đến một giải pháp chính trị, kết thúc chiến tranh ở Đông Dương.

Qua các chiến dịch lớn, thấy rõ tư tưởng chỉ đạo của Đảng là đánh chắc thắng, chủ động, mưu trí và sáng tạo tiến công địch, không có chiến dịch phòng ngự, không có sự phòng ngự chiến lược. Nhưng có phòng ngự chiến thuật, có lúc, có nơi phải rút khỏi chỗ này, chỗ khác, hoặc đánh thắng rồi rút quân.

Phương châm đánh chắc thắng còn quán triệt mục đích quân sự của chiến tranh cách mạng là diệt địch và bảo toàn lực lượng mình. Chỉ có tiêu diệt thật nhiều địch trong từng trận đánh, từng chiến dịch mới giữ được lực lượng của ta một cách chắc chắn nhất; làm cho địch không còn khả nǎng, không còn đủ lực lượng tiến công tiêu diệt lực lượng ta. Chiến thuật phòng ngự trong chiến tranh cách mạng cũng nhằm tạo điều kiện tiến lên tiêu diệt địch và cách phòng ngự có hiệu quả nhất là phòng ngự tích cực bằng tiến công.

Ngay từ đầu tuộc kháng chiến, Đảng ta đã dự kiến những hình thức và bước đi của cuộc kháng chiến, trong đó có hình thức kết thúc chiến tranh. Đó là tiến trình qua ba giai đoạn và cuối cùng "ta tung lực lượng toàn quốc, toàn dân đè bẹp quân địch giành lại toàn bộ lãnh thổ" hoặc là "trong những điều kiện nhất định, những đảng phái dân chủ Pháp có thể đứng ra dàn xếp với ta để cứu vãn tình thế. Nhân đó cuộc kháng chiến lâu dài của ta sẽ có những cuộc dàm phán mới xen vào và đây chính là một trong những đặc điểm của nó".

Cuối nǎm 1953 và dầu nǎm 1954, trên cơ sở thắng lợi của 8, 9 nǎm kháng chiến đã có những yếu tố mới làm xuất hiện khả nǎng kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp chính trị.

Trên chiến trường, ta thắng lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Đặc biệt thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược, ở Điện Biên Phủ đẩy địch lún sâu vào thế thất bại, từ phòng ngự trên chiến trường phải rút về phòng ngự quanh các cứ điểm lớn và các thành phố, thị xã. Trong khi đó, tình hình nước Pháp không ổn định, Chính phủ phân hoá, Quốc hội tranh luận sôi nổi về việc chấm dứt chiến tranh Đông Dương, nhân dân đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương, binh lính phản chiến ngày càng đông.

Tình hình quốc tế cũng có những thay đổi. Các nước lớn đã đi vào thế hoà hoãn, muốn kết thúc chiến tranh Đông Dương, tạo điều kiện cho Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc thương lượng với nhau. Mặt khác, Mỹ đe doạ sẽ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương.

Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định: trước đây ta chủ trương trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh là đúng, nay do tình hình biến đổi, ta chủ trương tranh thủ hoà bình, đồng thời tiếp tục chuẩn bị chiến tranh nếu cần thiết. Do đó, chúng ta đã cử phái đoàn Chính phủ do đồng chí Phạm Vǎn Đồng dẫn đầu tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương.

Ngày 8-5-1954, một ngày sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Các nước tham dự đều có ý đồ riêng của mình trong việc giải quyết chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương. Điều đó có tác động xấu đến tiến trình và kết quả Hội nghị. Nhưng với thiện chí hoà bình và thái độ kiên quyết đấu tranh có tình có lý của phái đoàn ta, cùng với những thắng lợi vang dội trên chiến trường đã thúc đẩy Hội nghị tiến triển. Ngày 20-7-1954, Hiệp định đình chiến, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết tại Giơ-ne-vơ. Các nước tham dự Hội nghi cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương và tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị của các nước Đông Dương.

Như Hội nghị Trung ương Đảng lân thư sáu tháng 7-1954 (khoá II) nêu rõ: "Lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta, nhưng chưa phải biến chuyển cǎn bản có tính chiến lược... Nếu đế quốc Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Đông Dương thì lực lương so sánh giữa ta và địch có thể thay đổi không lợi cho ta"và "do chiến tranh trường kỳ, nhân dân ta phải đóng góp sức người, sức của cũng nặng. Nếu chiến tranh kéo dài thì có thể sinh ra những hiện tượng mỏi mệt và khó khǎn của ta có thể nhiều hơn". Hội nghị đồng ý với đường lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ chính trị: "dùng phương pháp thương lượng để lập lại hoà bình ở Đông Dương".

Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công là một thắng lợi của ta. Dựa trên cơ sở thắng lợi đã đạt được, tranh thủ đình chiến và hoà bình, phá tan âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và thực dân Pháp, ta củng cố những thắng lợi đã giành được, tiếp tục tǎng cường lực lượng và tiếp tục đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là con đường duy nhất đúng và có lợi

Thời điểm và chủ trương kết thúc chiến tranh bằng giải pháp chính trị là đúng. Ta đã giành được thắng lợi cơ bản. Một nửa nước hoàn toàn giải phóng đi vào xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh hoàn toàn độc lập và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, do tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp và so sánh lực lượng lúc đó, nên Hiệp định Giơ-ne-vơ cũng làm hạn chế nhất định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Lào và Campuchia.

III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

1- Nêu cao tinh thần tự lực tự cường, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng vũ trang với ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc


Nêu cao tinh thần tự lực tự cường là truyền thống của Đảng và nhân dân ta. Chiến đấu trong hoàn cảnh bị bao vây thì tự lực cánh sinh để kháng chiến lâu dài cũng có ý nghĩa quan trọng.

Để chiến đấu thắng lợi, trước hết Đảng động viên toàn dân tham gia kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gãy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước" Đây là nét tiêu biểu về tinh thần tự lực tự cường và phản ánh thực chất của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Toàn dân đánh giặc là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã biết phát huy truyền thống đó, vì Đảng luôn tin ở dân. Đảng xác định sự nghiệp kháng chiến là sự nghiệp của toàn dân, sức mạnh của kháng chiến là sức mạnh của nhân dân, việc tǎng cường lực lượng kháng chiến chính là tâng cường sức dân, trong đó công nông là gốc. Cuộc kháng chiến chỉ giành thắng lợi khi việc tham gia kháng chiến đã trở thành hành động tự giác của nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ai cũng lo chuyện đánh giặc, mọi người dân đêu là chiến sĩ, khó phân biệt được người dân với người lính, hậu phương với tiền tuyến. Đó là tính chất nhân dân trong chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Điều quan trọng trong việc tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc là xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu. Lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng trong nhân dân được giác ngộ chính trị, đã hiểu rõ mục đích và đường lối kháng chiến của Đảng, tham gia kháng chiến có tổ chức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ tự nguyện tham gia các tổ chức cứu quốc hoặc hoạt động theo các khẩu hiệu hành động của mật trận dân tộc thống nhất. Qua các tổ chức của mặt trận, Đảng tuyên truyền, giáo dục đường lối kháng chiến cho nhân dân, như Lênin nói:

Việc quần chúng nhận thức được mục đích và nguyên nhân của cuộc chiến tranh có một tầm quan trọng to lớn, đó là sự bảo đảm cho thắng lợi.

Chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, nhưng lực lượng vũ trang là nòng cốt, là lực lượng chủ yếu đánh bại lực lượng vũ trang của địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng.

Đảng chủ trương động viên và vũ trang toàn dân để xây dựng lực lượng vũ trang của ta là lực lượng chính trị quần chúng được tổ chức và trang bị vũ khí ở những mức độ khác nhau, tạo thành các thứ quân khác nhau. Tuy có sự khác nhau về trình độ và trang bị, nhưng lực lượng vũ trang của ta có điểm thống nhất là đội quân tự nguyện, tự giác, chiến đấu cho mục đích chính trị của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng luôn luôn xác đính lực lượng vũ trang của ta là đội quân tình nguyện có tinh thần chiến đấu dũng cảm, phải có hình thức tổ chức thích hợp để nâng cao hiệu suất chiến đấu và phù hợp với đối tượng tác chiến.

Trong những nǎm của cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang của ta được tổ chức dưới hai hình thức: vệ quốc quân và dân quân (tự vệ và du kích). Hình thức tổ chức này phù hợp với điều kiện vật chất và trang bị vũ khí lúc đó, phù hợp với phương thức tác chiến là tập kích, phục kích nhằm tiêu hao, tiêu diệt địch. Vệ quốc quân và dân quân đã phối hợp chặt chẽ chiến đấu trong các thành phố, thị xã trong những ngày đầu kháng chiến. Hiệu quả của sự phối hợp chiến đấu ngày càng cao như những trận chiến đấu chống lại cuộc tấn công của địch vào chiến khu Việt Bắc tháng 10-1947. Bộ đội chủ lực cùng với dân quân tự vệ đã chiến đấu anh dũng, bảo vệ cơ quan đầu não của ta, đồng thời bản tồn được lực lượng của mình. Cũng như chiến khu Việt Bắc, nhiều địa phương trong cả nước đã tổ chức tốt những đội du kích phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu có hiệu quả, tiêu biểu như Cao Phạ (Tây Bắc), Lê Lợi (Đông Bắc), Kim Thành, Hoàng Ngân (Hải Hưng), Lê Hồng Phong (Bình Trị Thiên), Xitơ (Tây Nguyên) v.v..

Để phát triển mạnh chiến tranh du kích, tháng 5-1948, Đảng chủ trương phân tán hai phần ba bộ đội chủ lực thành các đại đội độc lập về hoạt động ở các huyện. Các đại đội chủ lực độc lập này trở thành lực lượng cơ động trên địa bàn huyện, đánh phá âm mưu bình định của địch, góp phần xây dựng lực lượng chính trị và dân quân du kích. Từ kết quả hoạt động của các đại đội độc lập, Đảng quyết định thành lập bộ đội địa phương vào tháng 8-1949. Như vậy, qua quá trình xây dựng và chiến đấu, lực lượng vũ trang của ta đã hình thành ba thứ quân rõ rệt: dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực.

Qua thực tế chiến đấu, ba thứ quân là hình thức tổ chức thích hợp nhất để động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.

Ba thứ quân tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm đánh địch được liên tục, đánh địch ở khắp nơi.

Ba thứ quân được hình thành trong thực tế chiến đấu, phát triển từ thấp đến cao phù hợp với sự phát triển của đấu tranh vũ trang du kích tiến lên vận động chiến và kết hợp các phương thức tác chiến đó. Các tổ chức đó phối hợp được sức mạnh của bộ đội thường trực với quần chúng vũ trang, kết hợp được lực lượng cơ động (bộ đội chủ lực) với lực lượng tại chỗ (bộ đội địa phương và dân quân du kích) trong chiến tranh nhân dân. Cách tổ chức đó đã đưa cuộc kháng chiến phát triển đúng hướng, càng đánh càng mạnh. Những ngày đầu kháng chiến, lực lượng vũ trang có 8 vạn người, đến cuối nǎm 1949, bộ đội thường trực đã lên tới 23 vạn người được tổ chức thành các đại đoàn chủ lực, được trang bị tương đối hoàn chỉnh. Dân quân du kích có trên 3 triệu người phối hợp với bộ đội địa phương tích cực đánh địch trong vùng tạm chiếm. Sự phát triển đó làm thay đổi về chất của cuộc kháng chiến. Chiến dịch Biên giới nǎm 1950 đánh dấu bước trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng vũ trang ta, và là điểm khởi đâu một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

Sáng tạo ra hình thức tổ chức lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân là biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ của Đảng ta. Lực lượng vũ trang với ba thứ quân phát huy tác dụng mạnh mẽ khi biết phối hợp với lực lượng chính trị, biết sử dụng linh hoạt mọi vu khí, mọi hình thức và quy mô tác chiến, tạo thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.

Trong những nǎm đầu kháng chiến, việc đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch được thực hiện bằng các tiểu đội trung đội vũ trang tuyên truyền, các đại đội chủ lực độc lập sau đó mở các chiến dịch nhỏ do tiểu đoàn hoặc trung đoàn chủ lực thực hiện. Trong các chiến dịch lớn, ta đánh vận động, đánh công sự vững chắc bằng các đại đoàn bộ binh có các đơn bị kỹ thuật phối hợp. Tuỳ tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc, từng chiến trường, lực lượng vũ trang ta lựa chọn hình thức tác chiến phù hợp, tạo ra nhiều cách đánh sáng tạo, mưu trí giành thắng lợi.

Trong hoàn cảnh của nước ta, việc giải quyết hậu cần nói chung và trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang nói riêng gặp không ít khó khǎn. Để giải quyết khó khǎn đó, Đảng chủ trương phải dựa vào dân, có gì đánh nấy, tự trang tự chế, đông thời tích cực lấy vũ khí của giặc để đánh giặc. Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân ta đã sản xuất được hàng triệu vũ khí thô sơ. Du kích và bộ đội địa phương đã thu được 38.694 súng trường, 9.099 súng liên thanh các cỡ, 259 súng cối, 40 khẩu đại bác và 477 máy vô tuyến để tự trang bị.

Thực tế chiến đấu cho thấy, vũ khí thô sơ có tác dụng lợi hại trong việc tiêu hao, tiêu diệt địch trong chiến tranh nhân dân. Chính vì vậy, trong cơ cấu trang bị lực lượng vũ trang của ta đã luôn chú ý phối hợp giữa vũ khí tối tân và vũ khí thô sơ nhằm nâng cao hiệu suất chiến đấu.

Một khó khǎn phải giải quyết là vũ khí trang bị của chủ lực vũ trang do nhiều nguồn và nhiều nơi sản xuất. Để phát huy hiệu lực của vũ khí trang bị, đòi hỏi bộ đội ta phải có quyết tâm cao, cố gắng nắm vững và sử dụng thành thạo những trang bị hiện có, đồng thời tích cực cải tiến vũ khí trang bị cho phù hợp với điều kiện chiến đấu của ta. Nhiều loại vux khí được bộ đội ta cải tiến sử dụng linh hoạt, đã phát huy hiệu lực rất to lớn.

Tất cả những điều đó góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến.

2- Xây dựng cǎn cứ địa và hậu phương tại chỗ vững chắc là điều kiện hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp

Nước ta hẹp lại dài, hai mặt giáp biển, phía bắc giáp Trung Quốc, mà lúc này Trung Quốc còn trong tay chính quyền Tưởng Giới Thạch, nên dễ bị bao vây chia cắt. Để bảo đảm chiến đấu thắng lợi, Đảng chủ trương xảy dựng cǎn cứ đia và hậu phương tại chỗ vững mạnh, lấy nông thôn đồng bằng và rừng núi làm địa bàn chiến lược trọng yếu. Đây là chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta trong việc quán triệt tư tưởng của Lênin về vai trò của hậu phương trong chiến tranh.

Khi chuẩn bị kháng chiến, cả nước được chia làm 12 khu để thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh. Bước vào cuộc kháng chiến, Đảng xác định ở Việt Nam có cǎn cứ địa vững chắc là lòng dân. Từ đó có thể mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong lòng địch và tổ chức cǎn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng bằng".

Với tinh thần đó, Đảng ta tích cực củng cố những cǎn cứ đã có như Việt Bắc, khu IV và khu V, vùng Đồng Tháp Mười, đồng thời tích cực xây dựng các làng chiến đấu, các cǎn cứ và khu du kích trong vùng tạm chiếm. ở nước ta không hình thành "vùng đỏ", "vùng trắng", không lấy nông thôn bao vây thành thị, mà hình thành một hệ thống cǎn cứ kháng chiến đa dạng ở cả vùng rừng núi, đồng bằng và thành phố.

Nông thôn đồng bằng là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Địch ra sức "bình định" vùng đồng bằng để "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" Chúng xây dựng hệ thống đồn bốt, cǎn cứ nhỏ ở ven đô thi, trục đường giao thông nhằm ngǎn chặn ta từ xa, tạo ra thế bao vây, chia cắt vùng nông thôn để dễ kiểm soát. Bọn việt gian phản động, tề điệp dựa vào hệ thống đôn bốt này để hoạt động lùng bắt cán bộ và đàn áp nhân dân ta.

Ta quyết tâm giữ vùng nông thôn để xây dựng hậu phương tại chỗ vững mạnh. Các làng chiến đấu và cǎn cứ du kích nằm xen kẽ với hệ thống đôn bốt địch. Tạo thế đan xen nhau. Ta tích cực chiến đấu bảo vệ hậu phương ta, đồng thời cũng ra sức đánh phá hậu phương địch, biến hậu phương địch thành tiền phương ta, không ngừng mở rộng hậu phương ta.

Công tác trong vùng địch kiểm soát và chiếm đóng đã trở thành một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ công tác của Đảng ta. Công tác ấy phải nhằm mục đích giữ vững và nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần quyết chiến của dân, lập lại và làm kiên cố các tổ chức quần chúng của Đảng, làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, phá chính quyền địch, phá kinh tế địch, lập lại chính quyền ta.

Thực hiện nghị quyết của Trung ương và qua chỉ thị của Đảng, nhân dân vùng tạm bị chiếm đã nổi dậy phá tề, nhiều nơi tổng phá tề diệt ác, trừ gian, tiêu diệt bọn bù nhìn tay sai, lập lại chính quyền cách mạng cơ sở. Công tác vận động binh lính địch được tiến hành với nhiều hình thức phong phú có hiệu quả cao. ở Nam Bộ, ta lấy được nhiều đồn địch không tốn một viên dạn do vận động được binh lính nổi dậy. Chiến tranh du kích được đẩy mạnh, từ việc chống càn, phá các cuộc hành quân của địch đánh vào hậu phương ta đến vây đôn, diệt bốt giặc làm cho vùng kiểm soát của địch ngày càng thu hẹp, cǎn cứ kháng chiến của ta ngày càng mở rộng.

Tháng 10-1951, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 2 (khoá II) đã ra nghị quyết về "Nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích". Từ tổng kết thực tiễn, Hội nghị chỉ rõ: vùng du kích và vùng tạm bị chiếm là không cố đính mà thường xuyên xen kẽ và biến đổi tuỳ theo sự phát triển lực lượng giữa ta và địch trong chiến tranh. Công tác dân vận, vận động nguy binh và chiến tranh du kích là công tác chính, trong đó "dân vận là công tác chính làm gốc cho mọi công tác khác. Tiến hành công tác dân vận thực chất là xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân. Đây không chỉ là "tích trữ được lực lượng" để đẩy mạnh kháng chiến, mà còn là đấu tranh giành dân, phá chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của địch. Nguyên tắc vận động quần chúng là :có lý, có lợi, đúng mức nhằm đoàn kết nhân dân tham gia kháng chiến .

Sau thắng lợi mở đầu đánh địch trong các thành phố, thị xã ta rút hầu hết lực lượng vũ trang ra khỏi thành phố và thị xã, xây dựng chỗ đứng vững chắc ở nông thôn đồng bằng và rừng núi, nhưng không bỏ thành phố, không lấy nông thôn bao vây thành thị, mà để lại một lực lượng thích hợp làm nhiệm vụ tuyên truyền vũ trang, duy trì và phát triển cơ sở chính trị trong thành phố, xây dựng "những cǎn cứ lõm" trong thành thị. Nhờ vậy, phong trào đấu tranh ở các đô thị vẫn được duy trì. Thành phố Sài Gòn bị địch chiếm đóng đầu tiên, nhưng lực lượng cách mạng vẫn được duy trì trong 13 hộ trên tổng số 18 hộ (đơn vị hành chính do Pháp đặt ra tương đương với một khu phố). Nhiều cuộc bãi công của công nhân liên tiếp nổ ra. Nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Pháp và can thiếp Mỹ, tiêu biểu là cuộc biểu tình của 50 vạn nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn vào ngày 19-3-1950 phản đối việc Mỹ đưa hai tàu chiến và hàng trǎm máy bay đến giương oai ở Sài Gòn và ngày đó trở thành ngày truyền thống toàn quốc chống Mỹ của nhân dân ta. Từ các cơ sở trong nội thành, thuốc men, súng dạn và những tin tức tình báo thường xuyên được cung cấp cho Chính phủ kháng chiến.

Bằng lực lượng nhỏ, tinh nhuệ, các chiến sĩ biệt động thọc sâu vào thành phố, đánh phá các cơ sở kỹ thuật và hậu cần của địch. Nhiều kho xǎng đâu và vũ khí của địch bị thiêu huỷ, nhiều cầu cống bị đánh sập, ngǎn cản giao thông của địch.

Nhiều trận đánh nhằm vào bọn sĩ quan Pháp, tiêu biểu là trận đánh của bốn chiến sĩ gái trong đội "du kích Minh Khai" tại khách sạn Magítxtích (Sài Gòn) diệt 30 sĩ quan Pháp.

Hình thức đấu tranh trong các đô thị rất đa dạng và phong phú như: kết hợp đấu tranh chính trị với những hoạt động vũ trang phối hợp của các đội biệt động và công an, kết hợp hoạt động công khai với hoạt động bí mật, hợp pháp với bất hợp pháp. Vận động binh lính phản chiến làm tan rã nguy quân với hoạt động tẩy chay "Hội đông an dân", "Hội đồng chấp chính" nhằm làm tê liệt bộ máy nguy quyền. Vừa tích cực đánh phá kho tàng, cơ sở hậu cần của địch, vừa tích cực chuẩn bị thuốc men, vải sợi và các hàng hoá khác cung cấp cho kháng chiến và vùng giải phóng. Bằng những hình thức đa dạng như thế, đã đưa người dân thành thị tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào công cuộc kháng chiến, làm cho thực dân Pháp không yên ở chính nơi mà chúng cho là an toàn nhất.

Tích cực xây dựng cǎn cứ kháng chiến và hậu phương tại chỗ, Đảng coi trọng xây dựng cǎn cứ, hậu phương chiến lược của cả nước. Cân cứ Việt Bắc được xây dựng thành cǎn cứ chiến lược của cuộc kháng chiến. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt của cuộc kháng chiến, và chuẩn bị tiền đề cho công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, nền kinh tế dân chủ nhân dân và chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố và xây dựng vững mạnh ở Việt Bắc.

Tháng 10-1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, từ đầu nǎm 1950 các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tranh thủ điều kiện thuận lợi này, tháng 9-1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới nối thông chiến khu Việt Bắc với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ đây, hậu phương kháng chiến của ta hình thành ba tầng: tại chỗ, cả nước và phe xã hội chủ nghĩa, kết hợp tự lực tự cường với đoàn kết quốc tế.

Dù có sự giúp đỡ quốc tế, nhưng Đảng ta vẫn thường xuyên giáo dục quân và dân ta nêu cao tinh thần tự lực tự cường để xây dựng hậu phương vững mạnh.

Đảng vận động nhân dân tích cực sản xuất và tạo điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp. Ngay từ tháng 11-1945, Nhà nước đã có thông tư giảm tô 25%, xoá bỏ một số thuế bất công cho nông dân, tịch thu ruộng đất của Pháp và đại Việt gian đem chia cho dân cày nghèo (có giành một phần đồn điền của Pháp để tổ chức các nông trường). Những nơi có điều kiện, tiến hành chia lại công điền công thỏ, tạm cấp ruộng vắng chủ cho nông dân cày cấy, vận động xoá nợ và hoãn nợ cho nông dân. Ngày 14-7-1949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô và những quy định về giảm tức, quy chế lĩnh canh và tạm cấp ruộng đất cho nông dân. Qua 5 đợt vận động giảm tô giảm tức đến tháng 4-1953, Đảng chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất trong vùng tự do nhằm xoá bỏ chế độ chiếm hữu phong kiến về ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, nhằm bồi dưỡng sức dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến.

Phát triển lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân và xây dựng hệ thống cǎn cứ địa tại chỗ vững chắc là hai bộ phận cấu thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp ở Việt Nam.

Hai nhiệm vụ phát triển lực lượng vũ trang và xây dựng cǎn cứ địa có quan hệ thúc đẩy nhau phát triển. Đảng ta đã giải quyết thành công mối quan hệ đó, đã thực sự xây dựng "mỗi phố là một trận địa, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi người dân là một người lính". Thành công này là nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng.

Hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, mặt trận mở ra ở bất cứ nơi nào có bóng địch, ta mới có thể lấy yếu chống mạnh, mới phát huy được mặt mạnh và cách đánh sở trường của ta. Địch không phát huy được mặt mạnh và cách đánh sở trường của chúng. Địch muốn đánh nhanh thắng nhanh, song buộc phải đánh lâu dài, nên ngày càng bị sa lầy và suy yếu địch muốn tập trung lực lượng đánh ta có chiến tuyến, song buộc phải phân tán lực lượng đối phó với ta trên cả nước. Địch không chỉ đánh với lực lượng vũ trang của ta có tinh thần chiến dấu dũng cảm, mà phải đương đầu với cả một dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất chống giặc ngoại xâm. Cuối cùng chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

3- Xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc

Nhân tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là Đảng ta có đường lối kháng chiến đúng đắn ngay từ đầu. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (22-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chi Minh (20-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng bí thư Trường Chinh (9-1947) là những vǎn kiện có tính cương lĩnh chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến.

Thời điểm ra đời của các vǎn kiện trên tự nói lên ý nghĩa vô cùng quan trọng của đường lối kháng chiến. Trong tình thế của ta "bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập, Chúng ta đã chọn con đường thứ hai: "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Đây chính là cơ sở, là điểm xuất phát của đường lối kháng chiến, nguồn gốc của thắng lợi sau này. Nhận thức đúng tương quan lực lượng và xu thế tất thắng của ta, phát hiện những vấn đề có tính quy luật của chiến tranh nhân dân là một thành công lớn về chỉ đạo chiến tranh của Đảng.

Trước hết, Đảng chỉ rõ kẻ thù chính của ta là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng vũ lực cướp lại nước ta. Xác định chính xác đối tượng chủ yếu của kháng chiến là vấn đề chiến lược quan trọng, cơ sở để tập hợp và xây dựng lực lượng.

Mục đích của kháng chiến là giành độc lập tự do, thống nhất thật sự cho Tổ quốc, thực hiện giải phóng dân tộc và phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến là vì dân tộc độc lập và dân chủ tự do.

Mục đích và tính chất của cuộc kháng chiến thể hiện rõ quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng. Hình thức là đối đầu quân sự với thực dân Pháp xâm lược, nhưng thực chất là tiếp tục những nhiệm vụ của Cách mạng tháng Tám. Tính chất triệt để và sức mạnh bên trong của kháng chiến là do tính triệt để và sự phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân quy định. Giành độc lập dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đã quy định đường lối kháng chiến là chiến tranh nhân dân, là phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, là "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", tự lực tự cường kết hợp với đoàn kết quốc tế.

Phương châm của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Thực hiện phương châm đó Đảng ta đã sử dụng được sức mạnh mọi mặt của toàn dân để khắc phục những khó khǎn ban đầu tưởng chừng như không vượt nổi, đồng thời khai thác được sức mạnh của truyền thống, của chính nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa. Do đó, nước ta từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, khó khǎn, thiếu thốn, tiến lên tự cung tự cấp đủ sức kháng chiến; có đội quân du kích phân tán xây dựng được lực lượng vũ trang với ba thứ quân; có chính quyền non trẻ xây dựng thành chính quyền nhân dân có uy tín và hoạt động có hiệu lực; và có một nền vǎn hoá với 90% số dân mù chữ trở thành một nền vǎn hoá kháng chiến và cách mạng.

Phương pháp cách mạng trong kháng chiến là xây dựng và sử dụng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để đánh thắng chiến tranh xâm lược. Đó là sức mạnh của đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu, là kết hợp vận động ngụy quân với nổi dậy phá tề trừ gian làm tan rã nguy quyền ở cơ sở. Đó là sức mạnh của du kích chiến tiến lên vận động chiến và phối hợp các hình thức tác chiến đó. Đó là sức mạnh của hậu phương kết hợp với tiền tuyến, của chiến trường chính với các chiến trường phối hợp, của nông thôn với thành phố.

Để thực hiện đường lối kháng chiến đúng đắn trong thực tiễn, Đảng đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng Đảng về tổ chức và tư tưởng. Trong điều kiện chiến đấu ngày càng ác liệt liên lạc gặp nhiều khó khǎn, Đảng chủ trương xây dựng các "chi bộ tự động công tác", phát huy tính chủ động sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ đảng ở các khu, tỉnh, thành v.v... Tǎng cường quyền hạn cho Uỷ ban kháng chiến khu. Khi mất liên lạc, Uỷ ban kháng chiến khu có toàn quyền điều khiển mọi mặt hoạt động ở địa phương theo đường lối của Đảng. Tǎng cường lực lượng lãnh đạo, Đảng quyết định phát triển "lớp đảng viên tháng Tám", kết nạp công nhân, nông dân, trí thức ưu tú và thanh niên dũng cảm trong quân đội. Sức chiến đấu của Đảng được tǎng cường ở nông thôn, các đơn vị quân đội và các ngành công tác của chính quyền, các xí nghiệp nhà nước hầu hết có chi bộ. Đến nǎm 1949, Đảng ta đã có hơn 70 vạn đảng viên. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Đảng, có nhiều trường hợp không nắm chắc tính giai cấp của Đảng, không thấu suốt tiêu chuẩn đảng viên, chưa coi trọng giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa cộng sản.

Để làm tròn sứ mệnh lãnh đạo kháng chiến, Đảng luôn luôn nhất mạnh việc củng cố Đảng và tǎng cường giáo dục đảng viên. Nǎm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các đồng chí Bắc Bộ, Trung Bộ và viết cuốn Sửa đổi lối làm việc. Trong các tài liệu này, Người nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cộng sản, bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, và phương pháp công tác cho đảng viên, chống các biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, công thần, ích kỷ, hẹp hòi, xa rời quần chúng.

Việc đấu tranh với những tư tưởng sai lầm trong cán bộ, đảng viên, đấu tranh với những biểu hiện hữu khuynh trong Đảng là một yêu cầu cấp thiết. Trong thư gửi các đông chí Bắc Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Trong lúc này tư tưởng và hành động của mỗi đông chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to, sai một ly đi một dặm".

Trước những thiếu sót của cán bộ, đảng viên, việc chỉnh đốn Đảng là cân thiết, là đúng. Củng cố phải đi đôi với phát triển, củng cố để phát triển và phát triển nhằm củng cố Đảng.

Nhưng, tháng 9-1950, Đảng quyết định tạm ngừng phát triển Đảng để củng cố. Chủ trương này được thực hiện một cách nhất loạt và kéo dài. Việc đóng cửa Đảng vào lúc kháng chiến đang quyết liệt và quần chúng đã được thử thách qua chiến đấu nên có ảnh hưởng lớn đến sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi đó, thắng lợi về mặt ngoại giao và sự phát triển của chiến tranh du kích đã làm cho một số cán bộ, đảng viên có nhận thức lệch lạc về tình hình, nóng vội muốn giành thắng lợi ngay. Có nơi động viên nhân tài vật lực quá mức, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân; khi thực hiện chủ trương "chuẩn bị để chuyển mạnh sang tổng phản công", không chú ý đây đủ đến việc bảo vệ cơ sở đảng và cơ sở quần chúng trong thành phố.

Trung ương Đảng kịp thời uốn nắn những tư tưởng và hành động sai lệch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư phê bình cán bộ liên khu IV sai lầm trong việc thực hiện chính sách động viên. Tổng bí thư Trường - Chinh viết bài: Nhận định đúng, hành động đúng, phê phán tư tưởng nóng vội và tư tưởng bi quan ngại khó, đồng thời vạch ra phương hướng đúng về xây dựng lực lượng vũ trang, về tổng động viên, về công tác vùng sau lưng địch.

Đến nǎm 1951, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến quan trọng, đặt ra những yêu cầu cấp bách, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn để đưa cách mạng tiến lên. Từ sau Cách mạng tháng Tám, một số vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược cần phải xác định. Cuộc kháng chiến trong thời kỳ mới đặt ra nhiều vấn đề lớn: tổ chức hậu phương, bảo đảm tác chiến tập trung trên quy mô lớn, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với kháng chiến và xây dựng Đảng trong tình hình mới. Những vấn đề ấy được làm rõ trong Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ II của Đảng tháng 2-1951.

Nội dung quan trọng của Đại hội là xác định mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời, đề ra hai nhiệm vụ cụ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam.

Đại hội khẳng định tư tưởng chiến lược là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc va chủ nghĩa xã hội đã nêu trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1980) là đúng đắn. Đại hội đã phát triển và cụ thể hoá tư tưởng chiến lược đó theo hướng: "Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, do nhân dân lao động làm động lực, cách mạng đó không chỉ giải quyết những nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến, mà còn phát triển chế độ dân chủ nhân dân một cách mạnh mẽ, đông thời gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội" Đại hội cũng xác định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam đại thể qua ba giai đoạn: độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội. ở giai đoạn đầu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến. Sự "mô hình hoá" và sự khẳng định nguyên tắc chỉ đạo chiến lược trên đánh dấu bước tiến mới của Đảng về nhận thức quy luật cách mạng ở nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết đúng mối quan hệ có tính quy luật giữa nhiệm vụ trước mắt và xu hướng tiến lên của cách mạng.

Đại hội cũng thảo luận và quyết định những nội dung cơ bản về xây dựng và củng cố chính quyền, quân đội, mặt trận dân tộc thống nhất, phát triển kinh tế, vǎn hoá, nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến giành thắng lợi.

Sau thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng và sự giúp đỡ quốc tế có mạnh hơn trước, trong Đảng ta xuất hiện một số nhận thức không đúng như ỷ lại vào bên ngoài, hoặc lạc quan tếu, muốn thắng nhanh, không thấy hết tính phức tạp, trường kỳ, gian khổ của cuộc kháng chiến. Để uốn nắn những nhận thức sai, nâng cao tinh thần tự lực tự cường, nǎm 1952, Đảng tổ chức "Cuộc vận động chỉnh Đảng". Đây là một cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình nghiêm túc nhằm thống nhất nhận thức, đoàn kết nội bộ, xây dựng tư tưởng tự lực tự cường, kháng chiến lâu dài trong cán bộ, đảng viên, làm rõ yêu cầu giữa vấn đề dân tộc và dân chủ. Nhưng trong tổ chức cuộc vận động chỉnh Đảng cũng đã mắc một số khuyết điểm.

Thiếu sót của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là tuy có nêu vấn đề thực hiện từng bước chính sách ruộng đất, nhưng không khẳng định chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất nguy trong kháng chiến khi yêu cầu của cuộc kháng chiến đặt ra. Để khắc phục thiếu sót đó, tháng 11-1953, Đảng ban hành cương lĩnh ruộng đất và quyết định tiến hành cải cách ruộng đất trong vùng tự do.

Cương lĩnh ruộng đất và chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến là đúng, đã thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ. Nhưng trong khi tổ chức thực hiện, ta đã mắc sai lầm giáo điều, rập khuôn, mở rộng diện đấu tranh quá mức.

Quá trình xây dựng Đảng trong kháng chiến tuy còn một số thiếu sót, khuyết điểm, nhưng trên cơ sở đường lối chính trị đúng đã làm tốt công tác tổ chức và công tác tư tưởng của Đảng xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc, thực sự là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Nguồn: Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Các tin khác
Xem tin theo ngày