TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới
Ngày cập nhật 11/01/2023

Xây dựng, củng cố và hoàn thiện thể chế văn hóa là cơ sở quan trọng để phát huy tối đa các nguồn lực, làm cho văn hóa trở thành nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc đánh giá toàn diện quá trình xây dựng, củng cố và hoàn thiện thể chế văn hóa ở nước ta thời gian qua, chỉ ra những điểm nghẽn và xác định những yêu cầu đổi mới là vô cùng cần thiết để thúc đẩy văn hóa phát triển, góp phần gia tăng sức mạnh quốc gia trong thời kỳ mới.

 

Đánh giá hiệu quả xây dựng, hoàn thiện thể chế, huy động nguồn lực phát triển văn hóa

Các kết quả đạt được

Thứ nhất, quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật đã hình thành nền tảng pháp lý toàn diện và hệ thống, góp phần tăng cường sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước của văn hóa.

Trong lĩnh vực văn hóa, hiện nay nước ta có 5 luật (Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hóa, Luật Quảng cáo, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thư viện), 50 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và trên 100 thông tư, thông tư liên tịch được điều chỉnh trực tiếp. Các luật này đã từng bước tạo ra một khuôn khổ pháp lý tương đối nhất quán, góp phần thể chế hóa và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng, tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa của người dân. Đồng thời, việc thể chế hóa hệ thống pháp luật đã từng bước giúp điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống văn hóa theo hướng hài hòa và lành mạnh hơn. Nhà nước từ vị trí người chỉ huy đã chuyển sang vai trò của nhà quản lý và bảo trợ. Từ sự chuyển dịch mang tính cấu trúc này, vai trò của hệ thống chính sách, pháp luật trong lĩnh vực văn hóa được đề cao.

Thứ hai, khung chính sách đã tạo môi trường thể chế cho phép các ngành công nghiệp văn hóa khai thác, chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa.

Sự ra đời của “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (năm 2016) đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi cho các ngành công nghiệp văn hóa khai thác và chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có sức hấp dẫn. Các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tích cực triển khai công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Những thay đổi tích cực về thể chế, chính sách đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa Việt Nam có những bước tiến mới, mang lại những đóng góp nhất định vào tăng trưởng GDP của cả nước. Theo thống kê, các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam đạt 3,61% GDP cả nước năm 2018 (so với mức 2,68% năm 2015). Công nghiệp văn hóa Việt Nam bước đầu phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa và chuyển hóa giá trị văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, hệ thống các văn bản pháp luật về thuế, khuyến khích xã hội hóa, thu hút nguồn lực từng bước tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư cho văn hóa.

Trong giai đoạn 2014 - 2019, tỷ lệ đầu tư cho văn hóa từ ngân sách nhà nước tăng dần theo các năm, đầu tư cho phát triển văn hóa thông qua nguồn vốn cấp về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 5.735,442 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển là 918,653 tỷ đồng, vốn ngân sách sự nghiệp là 4.816,789 tỷ đồng. Đầu tư cho phát triển văn hóa các địa phương trong giai đoạn trước năm 2016 được thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Trong giai đoạn 2014 - 2015, Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đã được cấp 546 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển là 290 tỷ đồng, vốn ngân sách sự nghiệp là 256 tỷ đồng. Trong giai đoạn 2016 - 2020, tổng nguồn vốn của Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa là 10.620 tỷ đồng(1). Về cơ bản, nguồn vốn đầu tư từ các chương trình này có tính chất “vốn mồi” đã đem lại hiệu quả để thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là đồng bào tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Bên cạnh đó, chủ trương xã hội hóa được xác lập qua các văn bản(2) đã tạo cơ chế, chính sách ưu đãi (về thuế, phí, tín dụng, quyền sử dụng đất...), các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng từ các cá nhân, tổ chức xã hội đã được huy động cho việc phát triển văn hóa. Nhà nước cũng khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản... Ví dụ, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định đối tượng không chịu thuế tại khoản 12, Điều 5. Theo đó, lĩnh vực văn hóa (bao gồm hoạt động văn hóa, triển lãm; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập phim, phát hành và chiếu phim) được hưởng mức thuế suất ưu đãi 5%. Đối với các hàng hóa, dịch vụ khác chịu mức thuế suất 10% (trong đó có các dịch vụ, hoạt động du lịch). Trong thời điểm đại dịch COVID-19, Nhà nước đã có những chính sách kịp thời, giảm thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa, du lịch... Ngoài ra, các nguồn lực khác cần thiết cho phát triển văn hóa ở Việt Nam, như nhân lực, kết cấu hạ tầng, kiến thức chuyên môn,... cũng được huy động và phát huy góp phần quan trọng trong việc tạo ra những kết quả tích cực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật nước nhà.

Thứ tư, cơ chế, chính sách đang từng bước góp phần cải thiện chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

Tính đến ngày 30-6-2021, tổng số nhân lực ngành văn hóa, thể thao, du lịch trong cả nước là 899.950 người, trong đó lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật: 19.751 người; lĩnh vực thể dục - thể thao: 10.199 người; lĩnh vực du lịch: 870.000 người, trong đó 18.907 người phục vụ ở cả 3 lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao và du lịch(3). Trong thời gian qua, các quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn về quy hoạch, tuyển chọn, sử dụng, bổ nhiệm... cán bộ được xây dựng bài bản, đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn, khắc phục những hạn chế trước đó. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ ngành đang được quy hoạch bài bản, điều chỉnh cơ cấu độ tuổi, trình độ hợp lý. Các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện tài năng văn hóa, nghệ thuật và tôn vinh nhân tài cũng được thực hiện nhằm thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao cho lĩnh vực văn hóa.

Thứ năm, quá trình hoàn thiện thể chế đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản, di tích lịch sử - văn hóa.

Quá trình hoàn thiện thể chế đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản, di tích lịch sử - văn hóa vốn vô cùng dồi dào, đa dạng của Việt Nam. Bên cạnh những chương trình cụ thể nhằm hiện thực hóa “Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030”, như Chương trình bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025; Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2022 - 2026 trong công tác giáo dục truyền thống cho học sinh, sinh viên thông qua các di tích, di sản văn hóa phi vật thể, các bảo tàng từ Trung ương đến địa phương (Chương trình phối hợp số 217/CTr-BGDĐT- BVHTTDL, ngày 4-3-2022), nước ta cũng tiếp tục các nỗ lực nhằm nâng cao vị thế trong cộng đồng quốc tế và tích cực quảng bá di sản văn hóa của đất nước ra thế giới, thể hiện ở việc trúng cử thành viên Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể nhiệm kỳ 2022 - 2026, đón nhận thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể được ghi danh vào các danh mục của UNESCO (Thực hành Then Tày, Nùng, Thái và Nghệ thuật làm gốm của người Chăm). 

 

Thứ sáu, việc chú trọng triển triển khai chủ đề năm trong ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát huy giá trị và vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội.

Trong năm 2022, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phát động chủ đề công tác năm là “Năm xây dựng môi trường văn hóa cơ sở và công tác tổ chức cán bộ”, từ đó đưa xây dựng môi trường văn hóa trở thành một bước đột phá mới trong hoạt động của toàn ngành với mục tiêu bảo đảm mọi thành viên của cộng đồng được phát triển các năng lực sáng tạo. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2021 - 2026. Đây là căn cứ để Ban Chỉ đạo Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nội dung trong phong trào có trọng tâm, trọng điểm; ban hành kế hoạch triển khai tổ chức thực hiện phong trào đến các cấp, các ngành và người dân kịp thời, góp phần phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố bồi đắp các giá trị chân - thiện - mỹ.

Thứ bảy, việc xây dựng thể chế, chính sách đã tôn trọng, bảo vệ sự đa dạng của văn hóa các dân tộc, vùng, miền, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh chính trị và giữ vững chủ quyền quốc gia của Tổ quốc.

Các chương trình và hoạt động đa dạng, phong phú, như lớp tập huấn, truyền dạy, ngày hội văn hóa các dân tộc, các liên hoan, chương trình biểu diễn lưu động,... được tổ chức thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa của nhân dân và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, góp phần tích cực để thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền trong cả nước. Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa - nghệ thuật được đẩy mạnh và tạo hiệu ứng tốt trong xã hội.

Thứ tám, các nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa số bước đầu phát huy hiệu quả.

Một loạt các chương trình chuyển đổi số đã được Chính phủ phê duyệt, như Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Đề án Số hóa dữ liệu lễ hội tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, Đề án Trung tâm phát hành phim trực tuyến... Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật càng có xu hướng chuyển dịch sang môi trường số. Các chương trình biểu diễn nghệ thuật không khán giả được phổ biến rộng rãi thông qua các nền tảng trực tuyến, mạng xã hội... và đạt hiệu quả cao.

Các hạn chế, bất cập

Một là, hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa có số lượng lớn, song nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý và tính quy phạm thấp, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể để các chủ thể phải thực hiện dẫn đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa còn hạn chế.

Hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa, gia đình có khoảng 160 văn bản quy phạm pháp luật, gồm nhiều loại khác nhau, từ luật, pháp lệnh đến thông tư. Số lượng văn bản mâu thuẫn, chồng chéo còn nhiều, làm giảm tính minh bạch khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó áp dụng. Một số lĩnh vực chưa có luật hoặc pháp lệnh điều chỉnh (nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế văn hóa, tuyên truyền cổ động chính trị, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ sĩ...), thậm chí chưa có văn bản điều chỉnh (lĩnh vực văn học, quản lý hoạt động trò chơi...) ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý nhà nước về từng lĩnh vực.

Hai là, khung thể chế chưa hoàn thiện, chậm điều chỉnh “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” trong bối cảnh mới đang làm giảm vai trò kiến tạo và khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa.

Mặc dù “Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đặt mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP, tuy nhiên sau gần 6 năm thực hiện Chiến lược, việc đạt được chỉ tiêu này vẫn còn là một thách thức rất lớn. Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam vẫn chưa được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật, thiếu chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý để phát triển lĩnh vực mới, đầy tiềm năng này, trong đó các chính sách về huy động nguồn lực đóng vai trò then chốt. Các chính sách phát triển công nghiệp văn hóa còn chưa phù hợp với sự vận động của thị trường, điển hình như việc kiểm duyệt nội dung các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật dựa trên những tiêu chí không rõ ràng. Mặt khác, Nhà nước không có cơ chế và chế tài đủ mạnh để giải quyết vấn đề cốt lõi của thị trường văn hóa, như bảo vệ bản quyền... Những bất cập trong việc sử dụng các công cụ quản lý khiến cho Nhà nước chưa thực sự trở thành trọng tài cho các chủ thể kinh tế, chưa điều tiết và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa những người sản xuất, phân phối hàng hóa và người tiêu dùng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhiều thể chế, quy định liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa còn chậm đổi mới, chưa phù hợp với quy chuẩn của quốc tế.

Ba là, cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành, cơ quan các cấp, giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân chưa chặt chẽ. Sự tham gia của các chủ thể cấp cơ sở, đặc biệt là những người chịu tác động trực tiếp của hệ thống thể chế, chính sách, còn mang tính hình thức.

Tuy được khẳng định là các tổ chức tự quản của người dân, rất nhiều tổ chức xã hội ở Việt Nam phụ thuộc về mặt kinh phí vào hệ thống chính trị và cơ quan nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội vì thế bị hành chính hóa, mang nặng tính hình thức và thụ động. Cơ chế cho sự tham gia của xã hội vào việc hoạch định, triển khai và đánh giá chính sách của Nhà nước và giám sát hoạt động của doanh nghiệp chưa được quy định rõ ràng. Trong khi đó, nhiều thủ tục hành chính của Nhà nước quy định các mối quan hệ dân sự còn rườm rà, làm giảm vai trò xã hội trong tham gia quản lý và điều tiết sự phát triển.

Bốn là, các quy định pháp luật về huy động nguồn lực cho thấy văn hóa chưa hoàn toàn là ngành, nghề được ưu tiên, khuyến khích, phát triển; văn hóa gặp phải các “điểm nghẽn”, “rào cản” từ chính nhận thức xã hội và các quy định của pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi từ thực tế sinh động.

Hiện nay, hiệu lực của các quy định về chính sách thuế trong các luật chuyên ngành chỉ mang tính nguyên tắc về “ưu đãi”, việc áp dụng phụ thuộc vào các quy định cụ thể của từng đạo luật về thuế. Luật Đầu tư năm 2020 quy định văn hóa là một trong những ngành, nghề được ưu đãi đầu tư, tuy nhiên chỉ giới hạn trong lĩnh vực hẹp là bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong khi văn hóa là lĩnh vực rộng. Năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), nhưng chỉ có 5 lĩnh vực được áp dụng đầu tư theo phương thức PPP, trong đó không có lĩnh vực văn hóa. Như vậy, căn cứ Luật Đầu tư và Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư thì lĩnh vực văn hóa chưa hoàn toàn là ngành, nghề được ưu tiên khuyến khích. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thu nhập được miễn thuế đối với các khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho các hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hóa, nghệ thuật, từ thiện... và phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác để lại đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của pháp luật chuyên ngành, tuy nhiên lại không có lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, thói quen trông chờ ngân sách của Nhà nước cho các hoạt động văn hóa vốn đã ăn sâu trong tiềm thức từ thời kinh tế tập trung bao cấp, cùng với quan niệm ngành văn hóa là ngành “tiêu tiền” đang tạo thêm những rào cản trong nhận thức về đầu tư các nguồn lực cho văn hóa.

Năm là, việc gián đoạn chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, chương trình phát triển văn hóa đang làm giảm động lực thúc đẩy phát triển văn hóa gắn với kinh tế - xã hội, để đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững.

Việc đầu tư cho bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đòi hỏi nguồn lực rất lớn. Trong thời gian qua, nguồn vốn đầu tư từ “Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa các năm 2014 - 2015” và “Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016 - 2020” có tính chất “vốn mồi” đã đem lại hiệu quả tích cực cho lĩnh vực di sản. Tuy nhiên, việc Chương trình kết thúc vào năm 2021 đã khiến cho việc huy động nguồn lực cho nhu cầu phát triển văn hóa của địa phương, vốn ngang bằng, thậm chí lớn hơn giai đoạn trước đây, gặp nhiều khó khăn.

Sáu là, cơ chế, chính sách đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển.

Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa đồng đều. Theo Nghị quyết số 40/2021/QH15, ngày 13-11-2021, của Quốc hội “Về việc phân bổ ngân sách Trung ương năm 2022”, tỷ lệ ngân sách dành cho văn hóa và thông tin chỉ chiếm 0,9% tổng ngân sách được phân bổ. Không chỉ hạn chế về quy mô, mà cơ cấu đầu tư công cho văn hóa cũng còn nhiều bất cập. Phần lớn nguồn vốn công dành cho hoạt động sự nghiệp, tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển còn thấp. Với những hạn chế này, đầu tư công của Nhà nước chưa đủ sức “làm mồi”, “dẫn dắt” cho đầu tư của tư nhân trên thị trường.

Bảy là, bất cập trong cơ chế, chính sách tạo tình trạng thiếu hài hòa giữa khu vực công và khu vực tư trong việc tiếp cận nguồn hỗ trợ từ Nhà nước.

Những bất cập trong việc phân bổ nguồn lực công và tiếp cận nguồn lực công cùng sự thiếu vắng những tiêu chí rõ ràng và cụ thể để làm cơ sở cho việc đánh giá và ban hành quyết định tài trợ chưa thực sự tạo ra động lực khuyến khích sáng tạo và nỗ lực nâng cao chất lượng tác phẩm, chưa tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

Định hướng và giải pháp

Việc đánh giá hiệu quả thể chế, chính sách như đã nêu trên đòi hỏi phải tập trung khắc phục bất cập, tháo gỡ các điểm nghẽn trong thực thi thể chế thông qua xây dựng, hoàn thiện chính sách có khả năng tạo cơ chế để thúc đẩy phát triển văn hóa trong giai đoạn mới. Cụ thể: 

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực văn hóa nhằm tạo cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội về văn hóa, tạo nguồn lực phát triển. Cụ thể: Sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa nhằm khắc phục bất cập, tháo gỡ các điểm nghẽn trong thực thi Luật Di sản văn hóa hiện hành ở các điểm chưa xác định rõ, hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị. Sửa đổi, bổ sung Luật Quảng cáo ở các quy định về các loại hình quảng cáo, phương tiện quảng cáo mới phát sinh...; nghiên cứu xây dựng luật về nghệ thuật biểu diễn, nghị định về hoạt động văn học, chính sách về tài sản nội dung văn hóa số... Tiếp tục điều chỉnh, sửa đổi một số luật chuyên ngành, như Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, các luật về thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, nghị định về khuyến khích xã hội hóa nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ Nhà nước, huy động nguồn lực xã hội và tối ưu hóa nguồn lực nội sinh từ văn hóa. Cụ thể: Luật Đầu tư cần các quy định pháp luật liên quan và quy định pháp luật chuyên ngành về văn hóa để tạo cơ sở pháp lý cho nguồn lực từ Nhà nước. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan để khơi thông nguồn lực từ văn hóa trong hạ tầng của văn hóa, như Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, trong đó có chính sách phù hợp phát huy, sử dụng có hiệu quả tài sản kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hóa, tài sản đặc thù của văn hóa; cơ chế tự chủ tài chính đồng bộ với nhân sự, kế hoạch của các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa. Bổ sung các chính sách thúc đẩy phát triển tài năng, tinh hoa trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, nhân lực của ngành văn hóa từ nguồn lực nhà nước, ưu tiên nhân lực sáng tạo và nhân lực quản lý. Các chính sách về nguồn lực nhà nước đầu tư cho văn hóa cũng cần tính đến chính sách tầm quốc gia, chính sách của địa phương, chính sách đặc thù, chính sách thúc đẩy phát triển văn hóa tinh hoa (văn hóa, nghệ thuật) và hỗ trợ phát triển văn hóa quần chúng.

Thứ hai, tiếp tục triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Đầu tư cho phát triển văn hóa đòi hỏi nguồn lực rất lớn. Nguồn vốn đầu tư từ “Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa các năm 2014 - 2015” có tính chất “vốn mồi” đã đem lại hiệu quả. Việc kết thúc Chương trình trong khi những nhu cầu về phát triển văn hóa của địa phương vẫn đặt ra tương đương thậm chí lớn hơn so với giai đoạn trước đã và đang đặt ra nhiều thách thức trong phát triển văn hóa. Vì vậy, rất cần một Chương trình mục tiêu quốc gia có tính chất tổng thể nhằm chấn hưng văn hóa. Trong thời gian tới, nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức, mang lại ý nghĩa quan trọng để các bộ, ngành, địa phương cùng ngành văn hóa xem xét, nhìn nhận sâu sắc các vấn đề văn hóa, vai trò, vị trí, về sự cần thiết phải quan tâm, đầu tư cho văn hóa một cách đồng bộ, toàn diện và đặt mức tối thiểu 2% tổng chi ngân sách hằng năm cho văn hóa theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống chính sách, điều chỉnh xây dựng “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trong đó đặt trọng tâm nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa. Về cơ bản, các giải pháp trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là Luật Cạnh tranh, nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu quả và bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường văn hóa Việt Nam. Triển khai nhóm giải pháp hoàn thiện thị trường văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có thế mạnh hội nhập quốc tế. Chú trọng phát triển thị trường văn hóa trên không gian mạng. Tăng cường đầu tư đào tạo nguồn nhân lực và thực hiện các giải pháp linh hoạt về quản lý nhân sự trong cơ chế thị trường và các nhóm giải pháp khác. Hình thành cấu trúc ngành có trọng tâm, trọng điểm, có tầm nhìn.

Thứ tư, xây dựng Bộ chỉ số quốc gia về phát triển văn hóa. Xây dựng bộ chỉ số tổng hợp và triển khai ứng dụng định kỳ để đo lường, đánh giá và giám sát sự đóng góp và tăng trưởng của lĩnh vực văn hóa trong tổng thể phát triển quốc gia; đồng thời, cung cấp các bằng cứ xác thực cho việc xây dựng thể chế, hoạch định chính sách và các chương trình can thiệp. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội về vai trò, vị thế và sự đóng góp của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước và sự cần thiết phải xây dựng Bộ chỉ số quốc gia về phát triển văn hóa.

Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Từng bước cân đối cơ cấu nguồn lực cán bộ (về tuổi, giới tính, địa bàn công tác ở các tuyến Trung ương, tỉnh/thành phố, quận/huyện và xã/phường/thị trấn) cho phù hợp. Có chính sách phát hiện, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, trọng dụng nhân tài. Ưu đãi văn nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong xã hội. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù. Xây dựng chế độ khen thưởng cả về vật chất và tinh thần phù hợp với những người có thành tích, cống hiến.

Thứ sáu, xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, huy động nguồn lực cho nghiên cứu, đẩy mạnh phát triển công nghệ và chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa. Cần có các chính sách ưu tiên phát triển nghiên cứu văn hóa, phát triển hạ tầng công nghệ đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; xây dựng hệ thống dữ liệu thống kê của ngành; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về văn hóa, nghệ thuật; ứng dụng công nghệ GIS (hệ thống thông tin địa lý) trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về văn hóa, nghệ thuật với các tổ chức nghiên cứu khoa học nước ngoài; đẩy mạnh công bố quốc tế các công trình khoa học về văn hóa, nghệ thuật. Hoàn thiện các chính sách văn hóa đối ngoại, tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa, tăng khả năng phát huy tính chủ động hội nhập,  tạo sự lan tỏa mạnh mẽ của giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới./.

--------------------

(1) Số liệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
(2) Nghị quyết số 90-CP, ngày 21-8-1997, của Chính phủ “Về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa”; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP, ngày 19-8-1999, của Chính phủ “Về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao”; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, ngày 30-5-2008, của Chính phủ “Về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường”; Nghị định số 59/2014/NĐ-CP, ngày 16-6-2014, của Chính phủ “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30-5-2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường”
(3) Số liệu do Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cung cấp

 

NGUYỄN VĂN HÙNG - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.798.022
Truy câp hiện tại 507