TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.288.695
Truy câp hiện tại 250
Vận dụng quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày cập nhật 16/10/2014

Trong bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho… Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.(1)

Quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là chỉ dẫn cơ bản về phương pháp cho mọi cán bộ, đảng viên khi tiến hành công tác vận động quần chúng. Người cho rằng: “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”Bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng” (2).

Vì sao Bác căn dặn như thế? Vì trong nhân dân có nhiều giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo khác nhau; có nghề nghiệp, trình độ, năng lực không giống nhau nên có yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích khác nhau. Trong nhân dân lại có bộ phận tiên tiến, bộ phận trung bình, bộ phận chậm tiến. Mặt khác, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng các tầng lớp nhân dân lại không đồng đều về trình độ nhận thức, hoàn cảnh xuất thân. Do đó, người làm dân vận phải hiểu rõ thực tế này để có cách làm thật phù hợp.

Cán bộ “dân vận khéo”, theo Hồ Chí Minh, đó phải là những người có kỹ năng nghiệp vụ. Kỹ năng ấy bao gồm: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”(3). Nghĩa là phải vận dụng “ngũ quan”, hiểu rõ thực tế, nói phải đi đôi với làm. Phải có óc nghiên cứu để nắm vững bản chất của con người, của sự việc. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở: “Dân vận khéo” là phải tránh bệnh chủ quan, phải phát huy dân chủ. Bởi theo Người: “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(4) và “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”(5).

“Dân vận khéo” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bao hàm cả việc thành thạo quy trình dân vận. Đó là phải có phương pháp tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu; phải dân chủ bàn bạc với dân để đặt kế hoạch rồi tổ chức cho toàn dân thi hành; phải kiểm tra, theo dõi, động viên, khuyến khích nhân dân; khi xong phải kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng kịp thời. Nhất là công tác kiểm tra để biến các chủ trương, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết về công tác dân vận được thi hành đến đâu, ưu khuyết điểm, hạn chế gì để từ đó có hướng giải quyết nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn.

Việc quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm về công tác dân vận, nhất là quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng trong vận động, tập hợp, tạo ra sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nhân tố cơ bản để giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay, việc tiến hành công tác dân vận là một nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương xuống cơ sở và đó là yêu cầu cấp thiết bảo đảm sự phát triển của đất nước. 

Tuy nhiên, việc tiến hành công tác dân vận của chính quyền cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập như chưa gần dân, sát dân, chưa nắm được hết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; có biểu hiện mất dân chủ; một bộ phận cán bộ, công chức ở cơ sở làm việc quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh, xa dân, chưa vận dụng thành thạo quy trình tiến hành dân vận… Vì vậy, việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, chấp hành pháp luật đạt hiệu quả thấp. Một số địa bàn cơ sở xảy ra tình trạng mất ổn định do nhân dân chưa đồng thuận, vi phạm dân chủ, khiếu kiện về tranh chấp đất đai kéo dài… 

Việc vận dụng quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiến hành công tác dân vận ở chính quyền cơ sở hiện nay thực sự mang tính bức thiết. Muốn vậy, cần chú ý thực hiện tốt các nội dung sau:

Một là, quán triệt, giáo dục quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về công tác dân vận.

Việc quán triệt, giáo dục quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được tiến hành bài bản, cụ thể và phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, như phải gắn với chương trình học tập, bồi dưỡng của cán bộ, đảng viên; tập huấn nghiệp vụ; sinh hoạt, nói chuyện chuyên đề; sơ, tổng kết về công tác dân vận… Quá trình đó đồng thời gắn với quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.

Hai là, thường xuyên bồi dưỡng phương pháp “Dân vận khéo” cho đội ngũ cán bộ, công chức.

Xây dựng cho cán bộ, công chức tinh thần tôn trọng và phục vụ nhân dân vô điều kiện; xây dựng và thực hành phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Rèn luyện cho cán bộ, công chức biết cách vận dụng thành thạo các bước công tác: Điều tra, nghiên cứu, khảo sát nắm chắc tình hình nhân dân trên địa bàn thông qua các kênh thông tin khác nhau, các hoạt động của các tổ chức đoàn thể...; tuyên truyền, giáo dục nhân dân về chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định ở địa phương; vận động, thuyết phục nhân dân hưởng ứng, tham gia phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng, phong trào “xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; hướng dẫn nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, phát triển sản xuất, ứng dụng khoa học - kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động…

Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở tiến hành công tác dân vận.

Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân trực tiếp lãnh đạo tiến hành công tác dân vận. Do vậy, cấp ủy đảng ở cơ sở phải đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cho từng thời gian nhất định; giao trách nhiệm dân vận cho từng cán bộ, đảng viên; lãnh đạo chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thanh niên, hội nông dân, hội phụ nữ, hội chiến binh cùng tiến hành công tác dân vận. Đặc biệt, phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị và lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, đôn đốc, phối hợp giữa các tổ chức trong công tác dân vận phải nhịp nhàng, đồng bộ.

Bốn là, xây dựng và nhân rộng mô hình “dân vận khéo”.

Để xây dựng được mô hình "dân vận khéo" đòi hỏi cấp ủy mỗi địa phương phải có chủ trương, kế hoạch sát thực tế và thực hiện chặt chẽ các khâu: Lựa chọn mô hình; dự kiến nhân sự; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, phương pháp dân vận; xây dựng cơ sở vật chất và điều kiện cần thiết cho công tác dân vận; thử nghiệm mô hình và tổ chức rút kinh nghiệm; học tập, vận dụng để nhân rộng mô hình.

-----------------------

(1). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 5, tr. 698-700.

(2). Sđd, tập 5, tr. 248.

(3), (4). Sđd, tập 5, tr. 699, 244.

(5). Sđd, tập 9, tr. 592.

 
Thiếu tá Trịnh Quốc Việt - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Các tin khác
Xem tin theo ngày