TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH; PHÁT HUY MẠNH MẼ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ; ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, ĐỘT PHÁ TRONG THAM MƯU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Tiếp cận dựa trên quyền con người trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay.
Ngày cập nhật 21/12/2023

Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khái niệm cơ bản trong lĩnh vực quyền con người trong thế giới hiện đại. Ở Việt Nam, việc lồng ghép tiếp cận dựa trên quyền con người trong thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế đã được áp dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, bất cập. Do đó, việc đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả tiếp cận dựa trên quyền con người trong thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở nước ta hiện nay là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thiết thực.

Về tiếp cận dựa trên quyền con người

Quyền con người là sản phẩm của lịch sử, giá trị chung của nhân loại, kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài vì tự do, công bằng và phát triển. Việc dựa vào những chuẩn mực và nguyên tắc về quyền con người làm mục tiêu hướng đến trong các hoạt động được Liên hợp quốc gọi là “Tiếp cận dựa trên quyền con người” (Human Rights - Based Approach - HRBA). Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đưa ra định nghĩa: “Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khái niệm khung về quá trình phát triển con người có tính quy luật dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người và định hướng hoạt động để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người”(1). Tiếp cận dựa trên quyền con người bao gồm một số nguyên tắc sau:

Thứ nhất, nguyên tắc minh bạch. Nguyên tắc này “cho phép tất cả các chủ thể có liên quan đến một quyết định hành chính, giao dịch kinh doanh hoặc một công việc nào khác không chỉ biết về những thông tin, số liệu cơ bản mà còn biết cả về cơ chế và quy trình”(2). Tính minh bạch thể hiện ở trạng thái chủ động, đó là khi các cơ quan nhà nước tự đánh giá được nhu cầu thông tin và chủ động cung cấp thông tin dù có được yêu cầu hay không. Nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước và các chủ thể có nghĩa vụ khác phải có trách nhiệm hoạt động một cách minh bạch nhằm bảo đảm người dân được quyền tiếp cận thông tin và quyền tự do biểu đạt trong khuôn khổ cho phép.  

Thứ hai, nguyên tắc tham gia. Nguyên tắc này đòi hỏi bảo đảm sự tham gia và khả năng tiếp cận của người dân với quy trình xây dựng, hoạch định chính sách, các dự án phát triển nhằm hướng đến việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Nguyên tắc này cũng giúp người dân có thể tiếp cận với những thông tin liên quan đến các dự án, chương trình phát triển, được quyền bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về các dự án và chương trình phát triển đó. Sự tham gia cần được hiểu là một hoạt động ở cấp độ cao hơn so với sự tham vấn. Tham gia là nền tảng cho tính tích cực của công dân. Nó đòi hỏi một số yếu tố, trong đó bao gồm việc xây dựng năng lực cho các tổ chức xã hội để chuyển tải những nhu cầu và nguyện vọng của người dân đến các cơ quan nhà nước.

Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm giải trình. Về mặt pháp lý, quyền con người phải được tôn trọng và bảo vệ, công dân có quyền yêu cầu nhà nước phải thực hiện và chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ, cam kết quốc tế về quyền con người; cũng như các chuẩn mực quốc tế về quyền con người cần phải được luật hóa, ghi nhận cụ thể trong hệ thống pháp luật quốc gia. HRBA cũng hỗ trợ người dân giám sát quá trình thực hiện các cam kết của chính phủ thông qua các cơ quan về quyền con người quốc gia hoặc thông qua cơ chế dựa trên các công ước về quyền con người. Trên cơ sở đó, nguyên tắc trách nhiệm giải trình đòi hỏi pháp luật quốc gia phải ghi nhận nghĩa vụ của nhà nước về quyền con người (tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy) trong các chính sách và chương trình phát triển ở cả cấp trung ương và địa phương. Ngoài ra, nguyên tắc này cũng đòi hỏi xác định những hạn chế về năng lực thực hiện nghĩa vụ của nhà nước và có các biện pháp để giải quyết những hạn chế đó, trong đó bao gồm việc bảo đảm cung cấp thông tin và dịch vụ trợ giúp pháp lý cho mọi đối tượng trong xã hội.

Thứ tư, nguyên tắc không phân biệt đối xử và tiếp cận bình đẳng. Mọi cá nhân sinh ra đều bình đẳng. Mọi người đều được hưởng những quyền con người cơ bản mà không bị phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào về lý do chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tuổi tác, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hoặc quan điểm chính trị, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, mức thu nhập, khuyết tật,....(3). Việc ưu tiên cho nhóm yếu thế trong xã hội sẽ không bị xem là phân biệt đối xử đối với các nhóm khác.

Thực trạng tiếp cận dựa trên quyền con người trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay

Nhóm yếu thế tồn tại ở mọi quốc gia, qua mọi thời kỳ lịch sử và không phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Một số đối tượng, như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT),…- những đối tượng không có khả năng tự tìm kiếm các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền của mình, thường được xác định là nhóm yếu thế. Hiểu một cách khái quát: “Nhóm yếu thế (hay nhóm thiệt thòi) là những nhóm xã hội đặc biệt, có hoàn cảnh khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp kém hơn so với các nhóm xã hội “bình thường” có những đặc điểm tương tự. Họ gặp phải hàng loạt thách thức, ngăn cản khả năng hòa nhập của họ vào đời sống cộng đồng”(4).

Nhóm yếu thế thường phải đối mặt với những rủi ro, nguy cơ bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp cao hơn người bình thường. Họ thường gặp những khó khăn, thách thức trong việc tìm kiếm các biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt, trong những điều kiện, như dịch bệnh, chiến tranh hoặc ở những quốc gia kém phát triển, nhóm yếu thế sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của công dân. Kết quả là họ luôn phải đối diện với những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ thiết yếu của xã hội, như các dịch vụ giáo dục, y tế. Do đó, HRBA đòi hỏi trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật phải hướng tới sự tôn trọng năng lực và giá trị của nhóm yếu thế, phải xây dựng được những cơ chế để nhóm yếu thế có cơ hội tự mình phát triển năng lực và giá trị của mình một cách chủ động và công bằng(5).

Đảng, Nhà nước ta nỗ lực chăm lo, bảo đảm cuộc sống mọi mặt cho người dân, nhất là người yếu thế trong xã hội _Ảnh: Tư liệu

Ngay sau khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc năm 1977, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế từ những năm 1980. Trong đó, có một số công ước có liên quan trực tiếp đến bảo đảm quyền con người, quyền của nhóm yếu thế, như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (UNCRC)(6), Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD)(7), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)(8).

Trên cơ sở đề cao vai trò của các thiết chế nhà nước và xã hội trong bảo đảm quyền con người, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế trong xã hội, cụ thể: 

Đối với nhóm phụ nữ và trẻ em, Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Trẻ em năm 2016, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Bộ luật Lao động năm 2019… là những văn bản pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền của nhóm phụ nữ, trẻ em. Đảng ta nhấn mạnh, cần “chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện và bảo đảm quyền của trẻ em; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước. Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ”(9). Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về bảo đảm quyền của phụ nữ, trẻ em. Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế và có nhiều cơ hội để có việc làm với thu nhập cao hơn. Sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ngày càng gia tăng. Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới, đứng thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ tham gia cơ quan dân cử; đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính và trong công tác quản lý(10). Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em được lồng ghép vào các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho trẻ em ngày càng được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình.

Tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em vẫn là những đối tượng dễ bị thiệt thòi, dễ bị tổn thương trước những nguy cơ, cũng như cần có thêm nhiều hơn nữa các cơ hội bình đẳng. Quá trình xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về quyền trẻ em còn tồn tại nhiều hạn chế. Một số nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, như trẻ em bị bạo lực, trẻ em bị bắt cóc, buôn bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo chưa được bảo vệ đúng mức. Hệ thống tư pháp thân thiện với trẻ em bước đầu được xây dựng nhưng chưa được thực hành rộng rãi. Trong việc quy định các cơ chế, biện pháp nhằm bảo đảm thực thi quyền phụ nữ còn thiếu đồng nhất, dẫn đến việc thực hiện các quy định chưa đạt được kết quả tốt.

Đối với nhóm người khuyết tật, Luật Người khuyết tật được thông qua tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII (năm 2010) là văn bản pháp lý quan trọng, có những bước tiến đáng kể so với Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Luật Người khuyết tật quy định quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội. Đặc biệt, các chính sách, pháp luật được thay đổi cách tiếp cận từ “từ thiện, nhân đạo” sang cách tiếp cận dựa trên quyền con người, điều này phản ánh được tinh thần và nội dung quy định của Công ước về quyền của người khuyết tật. Nhìn chung, ở Việt Nam trong những năm gần đây, người khuyết tật luôn là một trong những đối tượng yếu thế được Đảng, Nhà nước dành nhiều sự quan tâm và tạo điều kiện tiếp cận pháp luật một cách tích cực, thể hiện qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, như Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 1-11-2019, của Ban Bí thư, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật”; Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, ngày 10-4-2012, của Chính phủ, về “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật; Quyết định số 1019/QĐ-Ttg, ngày 5-8-2012, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020”. Các vấn đề liên quan đến quyền của người khuyết tật cũng được xác định rõ, như về chăm sóc y tế và phục hồi chức năng; tiếp cận giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm; tiếp cận và sử dụng các công trình xây dựng, công nghệ thông tin và truyền thông; trợ giúp pháp lý…(11). Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn có bất cập khi triển khai từ phía Nhà nước và từ phía người dân, một bộ phận người khuyết tật chưa được thông tin đầy đủ về quyền được trợ giúp pháp lý hoặc biết nhưng không thể tiếp cận với dịch vụ này do hoạt động truyền thông chưa sâu rộng đến được với đông đảo người khuyết tật. Cùng với đó, người khuyết tật còn gặp phải những rào cản, thách thức trong việc thực hiện các quyền của mình, đặc biệt là việc tiếp cận các dịch vụ, như giao thông, công trình công cộng, văn hóa, thể thao, du lịch...

Đối với nhóm người dân tộc thiểu số, trong những năm qua, Việt Nam dành nhiều sự quan tâm đến nhóm quyền của những đối tượng này, thể hiện qua hàng loạt các nghị quyết, kết luận, chương trình, nghị định, quyết định của Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về công tác dân tộc”; Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”; Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011, của Chính phủ, về “Công tác dân tộc nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14-3-2016, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt đề án Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới”; Quyết định số 2085/QĐ-Ttg, ngày 31-10-2016, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội người dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020”; Quyết định số 1719/QĐ-TTg, ngày 14-10-2021, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”; Nghị quyết số 10/NQ-CP, ngày 28-1-2022, của Chính phủ, về “Ban hành Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045”… Tuy nhiên, trên thực tế, việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Một số nội dung về chính sách dân tộc đã được xác định trong các chủ trương, đường lối của Đảng, nhưng chưa được thể chế hóa hoặc quy định rõ ràng, đầy đủ trong các văn bản pháp luật. Thực trạng này tạo nên những “khoảng trống” về căn cứ pháp lý. Do đó, nhóm người dân tộc thiểu số vẫn phải đối mặt với những rào cản, thách thức dẫn đến khó khăn trong tiếp cận các quyền cơ bản, đặc biệt là quyền tham gia vào quá trình ban hành chính sách, pháp luật.

Đối với người cao tuổi, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt, thông qua việc ban hành nhiều chính sách chăm lo đời sống người cao tuổi. Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 37). Quyền của người cao tuổi Việt Nam còn được thể hiện trong Luật Người cao tuổi 2009, Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Luật Bảo hiểm y tế 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014), Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007, Luật Việc làm 2009, Luật Người khuyết tật 2010... Những văn bản này tạo ra khung pháp lý vững chắc bảo đảm những quyền và lợi ích cơ bản của người cao tuổi, như quyền không bị phân biệt đối xử; quyền về an sinh xã hội; quyền có việc làm; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa, xã hội; quyền được phụng dưỡng, chăm sóc sức khỏe; quyền được phát huy vai trò trong xã hội (quyền được tôn trọng)...(12). Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của người cao tuổi còn nhiều hạn chế, bất cập. Theo đó, việc triển khai các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền của người cao tuổi còn thiếu cơ chế linh hoạt để bảo vệ, thúc đẩy quyền của người cao tuổi. Trong quá trình thực hiện, còn có lúc, có nơi, cấp ủy, chính quyền các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm trong thực hiện chính sách, pháp luật đối với người cao tuổi; thiếu sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo, chưa xây dựng được kế hoạch cụ thể, xem hoạt động người cao tuổi chỉ là những hoạt động phong trào. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật chưa kịp thời, thiếu chương trình, kế hoạch tuyên truyền tổng thể; nhiều địa phương, cán bộ chưa nắm rõ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến người cao tuổi để triển khai thực hiện.

Một số giải pháp để áp dụng có hiệu quả tiếp cận dựa trên quyền con người trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, vận dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế cần bảo đảm quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm yếu thế nói riêng, quyền con người nói chung.

Thứ hai, vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc của HRBA trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam.

Nguyên tắc minh bạch. Từ cách tiếp cận dựa trên quyền con người, để bảo đảm năng lực tiếp cận thông tin cơ bản về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong bảo đảm quyền của nhóm yếu thế cần có cơ chế đánh giá và giám sát việc thực thi quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Nhà nước cần ưu tiên triển khai tới các nhóm yếu thế bảo đảm quyền thông tin và kéo gần khoảng cách phát triển của nhóm đối tượng này với các nhóm khác. Cần phải có chế tài xử lý kiên quyết đối với những cơ quan, tổ chức không thực hiện cung cấp cũng như tạo điều kiện cung cấp thông tin đối với nhóm yếu thế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xã hội hóa nhằm tăng cường nguồn lực giúp nhóm yếu thế có thể tiếp cận thông tin nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Nguyên tắc tham gia. Theo đó, cần đổi mới quy trình xây dựng luật, tích cực thúc đẩy sự tham gia của các nhóm yếu thế vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Cần thường xuyên đánh giá kết quả, tác động của việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với cuộc sống của người dân để chỉ ra được những điểm tích cực, hạn chế, từ đó đề xuất hướng sửa đổi trong chính sách và pháp luật. Công việc này cần được tiến hành thường xuyên, khách quan bằng việc sử dụng các bộ tiêu chí, bộ chỉ số đánh giá. Đồng thời, cần nâng cao năng lực của nhóm yếu thế để bảo đảm quyền tham gia của nhóm này trong quá trình ban hành các văn bản, chính sách, phản ánh đúng nguyện vọng và lợi ích của họ.

Nguyên tắc trách nhiệm giải trình. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần nâng cao năng lực giải trình của cán bộ, công chức trong hệ thống bộ máy nhà nước. Theo đó, cán bộ, công chức cần thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ để nắm rõ, nắm chắc nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Bồi dưỡng kỹ năng giải trình cho cán bộ, công chức, như kỹ năng giải thích, thuyết trình để làm rõ về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Nâng cao ý thức của cán bộ, công chức khi thực hiện trách nhiệm giải trình. Cán bộ, công chức cần nhận thức rằng, trách nhiệm giải trình là trách nhiệm gắn liền, song song với việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Cần coi đó là sự thận trọng cần thiết cho mỗi quyết định, hành vi công vụ của mình.

Nguyên tắc không phân biệt đối xử và tiếp cận bình đẳng. Với những nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhóm yếu thế trong xã hội luôn có nguy cơ rơi vào tình trạng đối xử thiếu bình đẳng. Trước thực trạng đó, các nguyên tắc không biệt đối xử và tiếp cận bình đẳng của HRBA có những yêu cầu riêng cho từng nhóm đối tượng khác nhau trong việc thực hiện pháp luật.

Cán bộ, chiến sĩ quân y thăm, khám bệnh cho đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên _Nguồn: nhiepanhcuocsong.vn

Đối với phụ nữ, cần tiếp tục rà soát văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở các công ước quốc tế đã ký, đặc biệt là công ước CEDAW. Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng pháp luật và chính sách. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, tăng cường các cơ hội tiếp cận giáo dục và các hoạt động kinh tế, xã hội cho phụ nữ, nâng cao quyền, vị thế và năng lực kiểm soát các nguồn lực của người phụ nữ trong gia đình, đặc biệt là phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, phụ nữ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với trẻ em, thực hiện tốt trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để trẻ em được thực hiện các quyền cơ bản và bổn phận của mình, không phân biệt đối xử về màu da, giới tính, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo… hay địa vị xã hội, điều kiện sống của gia đình trẻ, cha, mẹ, người giám hộ hay những thành viên khác trong gia đình của trẻ… Đối với người khuyết tật, cần tiếp tục tập trung hoàn thiện và đồng bộ hơn nữa hệ thống pháp luật trong bảo đảm quyền của người khuyết tật trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như tinh thần Công ước về quyền của người khuyết tật. Trong đó, chú trọng nghiên cứu, xây dựng, tham gia xây dựng, góp ý, thẩm định các văn bản pháp luật, chính sách về người khuyết tật, bảo đảm các quyền của người khuyết tật. Việc xây dựng pháp luật phải được tiếp cận từ góc độ bảo đảm quyền của người khuyết tật trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đối với người cao tuổi, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến Luật Người cao tuổi. Nghiên cứu, điều chỉnh các quy định về trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính tiếp cận chính sách, bảo đảm mức sống tối thiểu cho nhóm người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, người cao tuổi khuyết tật, người cao tuổi neo đơn. Đối với nhóm người dân tộc thiểu số, cần sớm xây dựng và ban hành Luật Dân tộc, làm rõ nội hàm, tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng nhằm điều chỉnh toàn diện, đầy đủ các chính sách dân tộc, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và các quy định của Hiến pháp năm 2013 về dân tộc và chính sách dân tộc. Cần có cơ chế để người dân tộc thiểu số được tham gia nhiều hơn vào việc xây dựng, thực thi chính sách và phản biện những chính sách chưa hợp lý; đồng thời, vận động, thúc đẩy người dân tộc thiểu số tham gia tích cực vào quá trình xây dựng các chương trình, chính sách.

Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế. Chú trọng củng cố, phát huy vai trò của người làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở các cơ quan, tổ chức. Cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế phải làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Nên mở nhiều lớp bồi dưỡng theo chuyên đề về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tuyên tuyền, giúp việc tuyên truyền đi đúng hướng, đúng trọng tâm, đúng đối tượng./.

-----------------------

(1) OHCHR: Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, p. 15
(2) Xem: UNDP và Thanh tra Chính phủ: Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và chống tham nhũng, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008, tr. 12
(3) Xem: OHCHR: Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, p. 23
(4) Phan Thị Lan Hương: Bảo đảm quyền của nhóm yếu thế - Khoảng trống pháp lý và khuyến nghị cho Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2020, tr. 11-12
(5) Xem: Tạ Thị Thu Đông: Tiếp cận dựa trên quyền trong nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật. Bài viết nằm trong cuốn sách do Vũ Công Giao, Ngô Minh Hương (đồng chủ biên): Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr. 81
(6) Việt Nam ký kết Công ước này vào ngày 26-1-1990 và phê chuẩn vào ngày 28-2-1990 cùng với hai nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm
(7) Việt Nam ký kết gia nhập Công ước này từ năm 2007 và phê chuẩn năm 2014 mà không áp dụng bất kỳ điều khoản bảo lưu nào
(8) Việt Nam ký kết gia nhập Công ước này vào năm 1982. Công ước này quy định các quốc gia thành viên cần thiết lập sự bảo vệ về mặt pháp luật các quyền của phụ nữ do lo ngại rằng: Trong những hoàn cảnh nghèo khổ, phụ nữ là những người có ít cơ hội nhất trong việc hưởng lương thực, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, cơ hội việc làm và các nhu cầu khác
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 168-169.
(10) Nguyễn Thị Hồng Yến, Mạc Thị Hoài Phương: “Nỗ lực hành động vì phụ nữ và trẻ em tại Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 9-10-2022, https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/no-luc-hanh-dong-vi-phu-nu-va-tre-em-tai-viet-nam-17692
(11) Xem: Nguyễn Minh Tâm, Vũ Công Giao: Tiếp cận dựa trên quyền con người trong xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam. Bài viết nằm trong cuốn sách do Vũ Công Giao, Ngô Minh Hương (đồng chủ biên): Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 170
(12) Xem: Nguyễn Phương Nhung: “Thực hiện pháp luật về quyền người cao tuổi”, Tạp chí điện tử Lý luận Chính trị, ngày 20-1-2021, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3395-thuc-hien-phap-luat-ve-quyen-cua-nguoi-cao-tuoi.html

LÊ THỊ TRANG - Tạp chí Cộng sản
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Đăng nhập hệ thống
Người dùng:
Mật khẩu:
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
Tổng truy câp 9.296.442
Truy câp hiện tại 913